16 TẦNG TUỆ MINH SÁT CỦA THIỀN VIPASSANA ( TÓM TẮT)
1.Tuệ phân biệt Danh Sắc (Nāma-rūpapariccheda ñāṇa):
Tuệ tri thực tánh pháp trong sát na hiện tại.
Tuệ tri tướng trạng riêng biệt của từng danh pháp, từng sắc pháp trong sự tương giao danh-sắc.
Ví dụ, khi đi: ý muốn đi (danh) và động tác di chuyển (sắc),
hoặc động tác di chuyển (sắc) và tâm biết (danh) động tác di chuyển ấy, đang hỗ tương rất mật thiết nhưng lại hoàn toàn riêng biệt.
Nhờ nhận biết về danh – sắc, tà kiến về tự ngã được đoạn trừ. Tuệ này gọi là kiến tịnh (ditthivisuddhi)
2. Tuệ minh sát về nhân quả. (Paccayapariggaha ñāṇa)
TUỆ THẤY DUYÊN SINH
Hành giả tiếp tục quán sát chánh niệm Danh Sắc trong sát na hiện tại, tuệ tri nhân duyên (nguyên nhân và điều kiện) sinh khởi của từng danh pháp và sắc pháp.
Ví dụ: – Khi thấy, hành giả biết rõ danh pháp là nhãn thức khởi lên do duyên nhãn căn và sắc trần, có ngũ môn hướng tâm, trong điều kiện ánh sáng đầy đủ…
3.Tuệ thấu hiểu tam tướng (Sammāsana ñāṇa).
TUỆ THẤY DUYÊN DIỆT
Hành giả tiếp tục ghi nhận chánh niệm trên danh Sắc trong sát na hiện tại.
Hành giả thấy sâu hơn sự diệt và nhân duyên diệt của từng danh pháp, sắc pháp nên đạt được tuệ thứ 3 (sự sanh diệt vô thường, tính chất bất toại nguyện mang tính khổ đau và vô ngã của các pháp).
4. Tuệ sanh diệt (Udayabbayānupassanā-ñāṇa):
TUỆ THẤY SỰ SINH DIỆT LIÊN TỤC CỦA DANH SẮC
Tuệ này là cái thấy tổng hợp của ba tuệ trước.
Tuệ này càng thấy biết rõ ràng hơn ba tánh trạng chung của danh và sắc là vô thường, khổ não, vô ngã.
Điểm quan trọng:
– Do thấy được tánh trạng sự sinh (udaya) của danh và sắc nên trừ được “đoạn kiến” cho rằng diệt là sự chấm dứt hoàn toàn.
– Do thấy được tánh trạng sự diệt (vaya) của danh và sắc nên trừ được “thường kiến” cho rằng có sinh tức có sự liên tục tồn tại mãi mãi không bao giờ chấm dứt.
Thực ra diệt làm nhân cho sinh, đã sinh tất có diệt.
– Do thấy được sự sinh diệt liên tục mà hành giả vượt qua được mười pháp chướng ngại của thiền tuệ như: ánh sáng, trí sắc bén, hỷ, an, lạc, thắng giải, tinh cần , ứng niệm, xả, thỏa mãn.
– trên đây là trạng thái phi thường phát sinh trong tâm, nên hành giả dễ sinh ngã mạn, tự mãn, cho mình đã chứng đắc đạo quả.
5. Tuệ Diệt (Bhaṅga ñāṇa)
– Tuệ tri SỰ DIỆT NHANH CHÓNG CỦA DANH SẮC.
Hành giả thấy sự tan rã, phân tán, hoại diệt của nhanh chóng của danh sắc, làm hành giả chỉ chú ý đến sự diệt mà không chú ý đến sự sinh.
Đến đây loại trừ được điên đảo tưởng thường hằng (cho thân này là thường hằng, vĩnh cữu)
6. Tuệ Sợ hãi (Bhaya ñāṇa)
– Tuệ tri sự biến diệt, tan hoại của danh sắc là mối nguy hiểm đáng sợ.
-Thấy rỏ sự tham ái, đắm say trong danh sắc thì hậu quả thật đáng sợ.
– Khiến cho tham ái dừng lại, nhưng chưa trừ tận gốc.
7. tuệ thấy sự nguy hiểm của 5 uẩn (adīnava ñāṇa)
Tuệ thấy rõ sự nguy hiểm, sự bức bách, sự bất an, sự độc hại, sự bệnh hoạn… của tứ đại, của ngũ uẩn, của căn trần, nói chung là danh sắc.
8. tuệ nhàm chán (nibbidā ñāṇa)
Tuệ tri sự đáng nhàm chán của danh sắc.
Do kết quả tuệ thứ 7, nên không còn thấy có gì hấp dẫn để đam mê trong đó.
9. tuệ muốn giải thoát (muñcitukamyatā ñāṇa)
Tuệ tri sự cần yếu của THOÁT LY DANH SẮC.
Khi đã tuệ chứng khổ đế trong danh sắc.
Thấy rỏ 3 cõi là nhà lửa, muốn cắt đức mọi trói buộc để nhanh chóng thoát ra ngoài.
10. tuệ suy tư (patisaṅkhā -ñāṇa)
Trải qua tuệ muốn giải thoát, ở đây tuệ giác suy tư về tam pháp ấn, hành giả càng thấy rỏ đặc tính sinh diệt, chúng là rỗng không, không thể sở hữu, không thể kiểm soát của danh sắc.
Quan trọng là tuệ này đã tìm thấy con đường thoát ly (Đạo đế)
11. tuệ hành xã (saṅkhāra upekkhā ñāṇa)
Tuệ tri trạng thái bình lặng của các tâm hành, chuẩn bị cho tiến trình Thánh Đạo.
Không còn chấp thủ hay tham ái đối với ngũ uẩn.
12. tuệ thuận thứ (saccānulomika ñāṇa)
Tuệ tri trạng thái thuận nhập dòng Thánh Đạo.
(chứng ngộ Tứ Thánh Đế)
– một trạng thái hoàn toàn bình lặng trong sáng, lúc bấy giờ tâm hành giả tự động thuận nhập vào Đạo lộ của các bậc Thánh.
– Chuẩn bị cho Thánh Đạo Tâm
– Cận hành Thánh Đạo Tâm
– Thuận thứ Thánh Đạo
13. tuệ chuyển tánh (gotrabhu ñāṇa)
Tuệ tri trạng thái chuyển hóa từ phàm qua Thánh.
Lộ trình tâm chuyển sang đạo tuệ, lấy đối tượng là niết bàn.
Mặc dù danh sắc đã buông bỏ nhưng Tâm còn là tâm hiệp thế.
Vẫn chưa hoàn toàn đoạn tận các lậu hoặc.
14. đạo tuệ (magga): tri kiến thanh tịnh
Trí tuệ xuất hiện trong tâm siêu thế gọi là Đạo Tuệ.
Khi Đạo Tuệ xuất hiện lần đầu tiên gọi là Tâm Đạo Tu Đà Hoàn, Tâm Đạo hoạt động trong một sát na, nhưng nó giảm bớt sự tái sanh trong tương lai chỉ còn nhiều nhất là bảy lần ( không còn rơi vào bốn ác đạo).
Tuệ này đã hoàn toàn đoạn tận ba kiết sử đầu: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.
Khi tâm đạo xuất hiện thêm 3 lần nữa sẽ chứng đắc những Thánh đạo cao hơn.
– Tư đà hàm đạo đoạn giảm: Dục ái, sân hận.
– A Na Hàm đạo đoạn: Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân hận.
– A-la-hán Đạo đoạn thêm: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh.
15. quả tuệ (phala)
Tâm quả Tuệ phát sanh sau Tâm Đạo, đây là Tâm Quả Siêu Thế khởi lên trong 3 hay 2 sát na tâm.
Kết quả này là quy luật vận hành của các Pháp.
Hành giả cảm giác một sự an lạc sâu lắng. Sau khi tâm quả chấm dứt thì Niết Bàn không còn là đối tượng nữa.
16. tuệ phản chiếu (paccavekkhaṇa ñāṇa)
Liễu tri Đạo, Quả, Niết-bàn, và những phiền não, kiết sử nào đã diệt tận hay vẫn còn dư sót.
Ngay sau khi thực chứng một trong bốn Thánh Đạo-Quả vị ấy phản chiếu lại một cách tự nhiên những gì đã thể nghiệm:
– Thánh Đạo nào đã chứng
– Thánh Quả nào đã chứng
– Niết-bàn đã chứng qua Thánh Đạo-Quả nào
– Những phiền não hay kiết sử nào đã diệt tận.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (Hết trích dẫn)
Sự chia nhỏ này giúp thiền sinh dễ nhận biết đối chiếu so sánh các trạng thái mà mình mắc phải. Nhưng cũng dễ kẹt vào khái niệm ngôn từ khó hiểu. Cái lợi nhất là Minh sát tuệ này nói về 10 tùy phiền não trong phần Đạo Phi đạo tri kiến thanh tịnh khi mà sự quán thấy Sanh diệt của các đối tượng Hữu vi bắt đầu xảy ra, sự Định tĩnh của hành giả đủ sâu lắng để chúng xuất hiện làm cản trở bước tiến của Tuệ.
10 Tùy phiền não
– hào quang (ánh sáng, cầu vồng…)
– trí tuệ tri thức (pháp học)
– hỷ (lúc nào cũng vui tươi)
– an tịnh
– lạc
– quyết tín (tín quá, thấy Niết bàn tưởng)
– tinh cần
– niệm (thái quá dẫn tới xuất hiện nimitta)
– xả (tưởng lầm k còn phiền não)
– dục cầu (thỏa mãn)
10 tùy phiền não này có vẻ rất tương đồng với Vị ngọt, nhưng ở mức độ cao cấp hơn Vị ngokt ngoài đời sống thực tại rất nhiều. Vị ngọt vật lý, vị ngọt tinh thần có thể thay thế. Nhưng vị ngọt tâm linh đã dính mắc là chỉ có kẹt lại bằng cả ngàn kiếp luân hồi.
10 tùy phiền não này sẽ không xuất hiện khi
– định chưa đủ (phiền não khởi lên là phiền não thô, đời k phải là tùy phiền não của tuệ)
– không hành vipassana đúng cách (rơi vào tưởng, tà định, thấy ảo ảnh do các trung gian mang lại)
– đã là bậc Thánh và biết đạo lộ chân chánh
Các khái niệm chỉ biết mù mờ cũng chết. Các khái niệm biết quá rõ rồi vướng mắc vào ngôn từ cũng chết. Nên cần thấu rõ ý tứ trong lời răn của Phật, không dừng chân khi thấy Vị ngọt, không Sợ hãi khi thấy Nguy hiểm. Cần hiểu thấu rõ đặc tính Vô thường, Vô ngã của Pháp để mà kiên trì trên đạo lộ không lối này.