Thực hành Tứ niệm xứ?

Một hiện tượng phổ biến là người tu tập hay thậm chí hành thiền càng lâu năm càng dễ rơi vào tham, sân, si hay nhiều người tặc lưỡi đổ càng tu cao càng chướng duyên. Do đâu? Làm thế nào?

Chúng ta biết rằng cứ căn – trần tiếp xúc sinh ra các thọ (cảm giác: cảm giác hình ảnh, cảm giác âm thanh, cảm giác mùi, cảm giác vị, cảm giác pháp trần) chính vì vậy mà cứ mặc nhiên cho rằng mình đang thấy các thọ rồi. Mình thấy các thọ, ghi nhận đó là thọ, tưởng thế là dừng ở tâm biết trực tiếp rồi. Biết đâu rằng, cái bộ vi xử 1000i của mình đã nhanh chóng khéo léo đưa cái ý thức được nảy sinh sau thọ, tưởng đó nhét nó vào kho chứa. Càng thực hành lâu, cái kho chứa đó càng dày, càng vi tế càng rõ rệt. Và phải nói thật là bạn càng ngày càng thông minh, càng hiểu biết. Vì phần quán tâm biết trực tiếp này của bạn đã quá thuần thục. Bao nhiêu người ngoài kia họ k thực hành pháp thì họ chỉ nhận ra những sắc, thanh, hương, vị… một cách thô, còn bạn có thể nhận ra nó ở mức vi tế hơn rất nhiều. Vì đó là cơ chế tự nhiên, càng chú tâm cái gì thì càng tường tận cái đó. Và một khi kho chứa đạt tới mức có thể matching rất nhiều toàn bộ thông tin dữ liệu nạp với cái vô minh có sẵn thì lúc đó… gặp chướng duyên: tham vi tế, sân vi tế, si vi tế, kèm theo phóng dật và vọng tưởng thậm chí còn nhiều hơn. Biểu hiện bạn dễ dàng phản ứng đúng sai, so sánh, tốt xấu, hay dở với mọi thứ. Nhiều người còn nảy ra các khả năng đặc biệt, hay các ý tưởng được cho là lớn, vĩ đại … Vì tâm bạn đã quá thuần thục với việc nhận ra các cảm giác (thọ), hay các tế bào thần kinh não đã khai thác tới kho chứa tưởng thức trước đây… Nhưng các “biết” nhiều bao nhiêu, càng “khổ” bấy nhiêu là vậy.

Có thể bạn đang nhận ra đó là các lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, các thọ ấy biểu hiện trên các nội thọ, hay trên các ngoại thọ (cảm giác bên trong, cảm giác bên ngoài). Nhưng tính sinh diệt các thọ bạn chưa thực sự làm được, chưa thân chứng được việc này, thậm chí chưa duy trì được việc này. Bạn có thể nhận ra phần thô ở tiếng từng hạt mưa rơi xuống rồi mất, ở từng cơn gió lạnh thổi chạm vào da rồi mất, nhưng chưa nhận được ra cảm giác pháp trần (hay có nơi gọi là ý niệm) đến rồi mất. Nếu có mới là nhận ra một lộ trình tâm đang xảy ra, hay một tâm hành đang xảy ra. Thậm chí bạn chưa thân chứng được sự sinh diệt của các thọ, các thọ nảy sinh nơi 6 xứ, nó chỉ dừng lại nơi 6 xứ, các tế bào thần kinh tại 6 xứ này không dẫn truyền tiếp các thông tin vào khó chứa để tư duy. Khi ở trạng thái này, bạn nghe nhưng tiếng của nó là ở nơi nó phát ra, nó thậm chí dường như không hề ở tai bạn; bạn thấy gió, thậm chí bật cái quạt thốc vào người, gió như không chạm tới da thịt bạn, gió ở nơi không khí quanh bạn. Bạn là bạn, mọi thứ là mọi thứ. Bạn dường như trơ trơ ra như đá. Cũng có thể bạn như cái máy quay li tâm ở tốc độ cao mà cái gì đi vào cũng văng ra, quay quanh quỹ đạo xung quanh, không thể nào vào tới tâm được. Bạn hoàn toàn thân chứng được vô ngã, vô chủ sở hữu của các thọ, sự sinh diệt của các thọ. Ở đây, trạng thái tâm biết trực tiếp được viên mãn, tâm giải thoát là có thực. Không phải là bạn tin có trạng thái đó.

Nhân vô minh còn chưa diệt, các căn – trần vẫn hàng ngày tiếp xúc phát sinh thọ nữa nên lại kích hoạt các tâm hành: tư duy, tham, sân, si, dục, tác ý, ngữ, nghiệp, mạng … Tại các tâm hành này mà tuệ tri: nó tham, sân, si hay là không tham, sân, si; nó là thâu nhiếp hay tán loạn; nó là quảng đại, hay không quảng đại; là hữu hạn hay vô thượng; là giải thoát hay không giải thoát. Rõ ràng là quán Tâm ở đây cần nhận rõ mình đang trên lộ trình tâm 8 chánh hay 8 tà. Tâm mình đã đạt được Tâm giải thoát, dừng lại ở cái tâm biết trực tiếp, tỉnh giác viên mãn như trên đã nói chưa. Chỉ tới bước này thôi. Đa số mới chỉ dám thừa nhận là mình đang tâm tà hay tâm chánh. Nhiều người tự huyễn mình đang siết chặt răng lưỡi nên là tâm chánh. Tâm chánh thì không thể phóng dật, không thể vọng tưởng như vậy được. Tâm chánh là phải được thâu nhiếp, không phải là tán loạn. Tâm chánh là quảng đại, không phải là không quảng đại. Tâm chánh là vô thượng, không phải là hữu hạn. Tâm chánh là giải thoát, không phải không giải thoát. Không dám thừa nhận mình tâm tà, vì bản ngã, vì cái tôi, vì tự ngã, vì tưởng tri,…vì không dám nhìn thẳng vào sự thật không thành tựu của mình. Khi không dám đối diện, là bạn đã không thể quán tâm, sự quán tâm hời hợt, khiến cho pháp của Đức Thế tôn chỉ dừng lại ở đó. Còn bản thân bạn thì làm dày hơn các tâm tà của mình. Càng ngày càng dày. Đến nỗi nó làm bạn khô héo, đến thanh sắc của bạn khó coi và trường sinh học quanh bạn dệt lại đặc quánh khiến ai cũng khó chịu và không muốn đến gần. Thật sự nhìn bạn không an yên, định tĩnh, hay thậm chí hồn nhiên của một người có tâm giải thoát.

Tâm hành thôi bạn còn chưa dám nhìn thẳng vào mình, thì thật sự các pháp cao cả, những nội dung sâu xa, vi tế hơn ở phần quán Pháp bạn cũng khó mà đối diện một cách kham nhẫn. Đức Thế tôn không tự dưng vẽ ra bao nhiêu là đề mục cho quán Pháp như vậy, cũng không phải tự dưng sắp xếp nó theo thứ tự như vậy. Và không tự nhiên câu được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất ở quán pháp mà các đề mục quán trước đó không có là: …”được đoạn diệt, tương lai không sinh khởi nữa”…

1. Năm triền cái: ái dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi

2. Năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức

3. Sáu nội ngoại xứ: mắt – sắc, tai – tiếng, mũi – hương, lưỡi – vị, thân – xúc, ý – pháp

4. Bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định, giác chi, xả giác chi

5. Bốn thánh đế: khổ, khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt

Nhưng mấy ai trong các thời thiền, định tĩnh, tuệ tri về các đề mục này, chưa kể ngay trong khi căn trần tiếp xúc, phát sinh thọ tưởng và ý thức, đã biết ý thức này nó chạy vào rãnh nào trong 5 cái rãnh trên. Để mà từ các rãnh trên nó đi đến đoạn diệt, không thể trổ thêm nữa. Nó chính là các cành cụt. Nhưng bạn lại làm cho nó thành: con kiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt, leo ra leo vào, con kiến mà leo cành đào, leo phải cành cụt, leo vào leo ra. Sự quán hời hợt trên các pháp khiến cho mọi thứ cứ lẩn quẩn, vào ra, ra vào như vậy. Trạng thái nơi các pháp không sinh ra, giống như các cửa cống không rò rỉ ra mùi hôi thối vậy, các lậu hoặc nhờ tu tập được đoạn trừ. Sự thanh tịnh, vượt khỏi sầu não, diệt trì khổ ưu, thành tựu chánh trí hiển lộ rõ ràng nơi thân tâm bạn như một bông hoa tới kì thì nở vậy. Không phải tuyên bố tôi chứng, hay chỉ có tâm người đó mới biết, mà mọi chúng sinh hữu tình đều biết một bông hoa kia đang nở đẹp, thanh tịnh như vậy.

Pháp của Đức Thế tôn, tịch tĩnh, sâu xa, khó thấy, chỉ dành cho kẻ trí tự mình chứng ngộ. Đừng tự cho rằng, mới học được chút văn tuệ, mới thực hành vài năm, thi thoảng trong các thời thiền vào tới tứ thiền là cho rằng mình là kẻ trí, những người khác còn mông muội, phàm phu lắm. Việc của mình là đọc Tâm mình, quán sát miên mật các thọ, tâm hành, các pháp nơi pháp.

P/s: cảm ơn vị thầy tâm linh đã soi sáng, chỉ lối cho con, tránh cho con lạc bến mơ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

*
*
Website