Khi có được Minh hay hiểu biết về Sự thực, hay có được Văn Tuệ, thì việc tiếp theo là Tư duy và Tu tập thiền quán để thấu triệt Minh. Hay nói một cách khác: Kiến thức không có nhiều, vài trang giấy là hết, nhưng thân chứng được nó, để hiểu biết đó trở thành của mình, như bản năng của mình thì cần phải thực hành, tinh tấn, chuyên cần, có đủ trải nghiệm thì mới biến hiểu biết trên giấy trở thành dòng chảy vô tận trong mỗi chúng ta được.
Mỗi ngày, không nhiều, đọc vài bài kệ trong Trưởng lão Tăng kệ, Trưởng lão ni kệ – Tiểu bộ Kinh (Kinh Nikaya – Hòa thượng Minh Châu dịch Việt) để động viên con đường tu tập của chính mình. Những tấm gương đó đều như đang hiện tiền trước mặt, những vướng mắc, sai lầm của các vị dù có mắc vào nhưng với quyết tâm không thối chuyển, các vị vẫn đạt được đạo quả: chứng sáu thắng trí, đoạn tận lậu hoặc, đoạn diệt kiết sử, vượt qua sanh y, ….
Người có trí, không phải tham cầu những thứ bên ngoài, không phải tham ái sự bình an nơi nội tâm, mà là quyết tâm vượt qua chính mình, trở về với tâm tư vắng lặng, chấm dứt được các trói buộc ở đời, tịch tĩnh với các lậu hoặc đang sinh diệt liên tục… thì đường đi dầu có chông gai hay độc mộc vẫn cứ thong dong, nhẹ nhàng bước với những quan sát sâu lắng nơi chính tâm tư mình.
* Đoạn trích về Trưởng lão Isidinda
Trong thời Đức Phật, ngài sanh ở xứ Sunaparanta. Được diện kiến Thế Tôn, được nghe chánh pháp, trở thành bậc dự lưu, sống đời sống cư sĩ. Một hôm, có vị Thiên nhân khích lệ ngài:
Ta thấy người cư sĩ
Trì pháp với lời nói
“Các dục là vô thường”
Họ ưa thích ái luyến
Châu báu và vòng nhẫn
Họ đón chờ vợ con.
Thật sự họ không biết
Pháp như thật là gì?
Dầu họ có tuyên hố:
“Các dục là vô thường!”
Họ không có sức mạnh
Để cắt đứt tham ái.
Do vậy, họ luyến tiếc
Vợ con và tài sản.
Khi cư sĩ Isidinda nghe vậy, ngài cảm thấy xúc động, quyết tâm thực hành thiền quán. Rồi khi ngài chứng quả Alahan, ngài nói lên Chánh trí của mình khi lập lại bài kệ trên.