Dưới góc độ là bạn bè mình cảm thương xen lẫn sự đau xót.
Dưới góc độ kinh doanh, mình chưa đồng ý với việc chưa phân tích
kỹ về điểm mạnh, điểm yếu hay những yếu tố, những điểm cấu thành lên sự thành
bại của một doanh nghiệp.
Dưới góc độ là đạo hữu, nghiêm túc phê bình khi tu đạo mà vẫn
còn ảo tưởng và tầm cầu:
– đã biết con đường tu hành việc của mình là tu, không tham vọng
mở cái nọ, lập cái kia, tạo ra cái nọ, tạo ra cái chai. tự nhiên đã sẵn đủ cho
loài người sinh tồn.
– cho rằng mình làm điều đó là tốt cho mọi người hơn thì là càng
nói lên bản ngã mà thôi, tự nhiên luôn sắp xếp điều gì là tốt nhất cho chúng
sanh (câu chuyện ăn mày xin làm bồ tát là một ví dụ).
– cho rằng làm để kiếm tiền là phương tiện hay dùng làm thiện
pháp thì càng nực cười, vì thiện pháp không phải có thể dùng tiền mà hoằng
dương được, càng không phụ thuộc bản ngã của bạn muốn là được.
(Chố này tế nhị và dễ đi vào tranh luận. Nếu bạn cãi chỗ này:
nhưng muốn hoằng dương thì phải cần đến tiền làm phương tiện. Thưa, Đạo không
phải là một cuộc tranh cử tổng thống Mỹ, cái gì đến nó sẽ đến theo đúng nhân
duyên của nó.)
Nói những điều này, không có nghĩa là phó mặc, hay mặc kệ. Chúng
ta là một sinh linh của tự nhiên, cái chúng ta có thể làm là Tác ý chân chính
để đi đúng dòng chảy của nó. Loài người vì vô minh, tham ái, bản ngã mới dẫn
tới luân hồi, tái sinh. Còn tự nhiên chẳng hữu ý lại cứ thế tự sinh tự diệt.
Nếu chúng ta còn thích đi ngược lại tự nhiên, cưỡng chế, ép đặt nó tạo ra những
thứ mà bản ngã cho rằng là đúng đắn theo kinh nghiệm, tri thức cá nhân thì tự
nhiên sẽ cho bạn biết về bài học của nó.
Nếu những người tu đạo, không thể nào nhận ra những điều này,
tìm cách bao biện, biện hộ bằng mọi ngôn từ lý luận thì sẽ còn những đau xót
đáng thương hơn nhiều câu chuyện của Pate Chay.
P/s: 3 năm trước mà đọc ai viết thế này mình sẽ còm chửi đấy,
hoặc k còm thì cũng chửi thầm. Nhưng rồi có những biến cố để mà nhận ra giá trị
của tự nhiên. Vì thế mà từ Thatcher chỉ huy công trường cả trăm thợ, đánh đông
dẹp bắc, rút về làm bà cô ngồi góc nhà. Thiếu cái chuông, cái mõ nữa thôi.
Viết là một cách sửa tâm. Mà trước hết là sửa tâm minh.
Phải thành thật:
– quá nhiều vọng niệm nhảy ra, k thể yên mà tọa thiền được;
– thứ hai là bản thân mình cũng đã mắc từng này lỗi (có thể chỉ
1,2 lần nhưng cũng là mắc) thì mới có thể nói chính xác, miêu tả trạng thái,
cách hành xử như vậy được;
– thứ ba là cũng đã tàm quý để vượt qua các lỗi chứ các bài viết
không bao giờ nói suông về lỗi chỉ để chê trích.
Danh xưng bạn thực chất là tiềm thức đang nói với ý thức của
chính bản thân người viết, và để câu chuyện mang tính khách quan cho người đọc.
Ai đó vô tình đọc:
– nếu bấm like, haha, thì:
+ một là không có mình trong đó, chẳng nghĩ gì, vì các bài viết
đều có tính hài hước
+ hai là có lỗi sai, nhận ra lỗi sai, like tim để cảm ơn người
viết đã chỉ ra
– nếu ai đó comment phản ứng ngược lại, vì góc nhìn của hai bên
chưa thống nhất, quan điểm chưa đồng, đó là chuyện bt vì kho chứa mỗi ng đều
khác nhau, khả năng học hỏi, nắm bắt khác nhau, mặt khác cũng k kết luận là hai
người lệch nhau mọi quan điểm
– nếu ai đó cho rằng đang nói mình, không còm, nhưng kết luận ng
viết đang cố tình bôi xấu mình, soi mói mình, mình k có gì sai, rồi người viết
vẫn còn non lắm, mới chỉ hiểu vậy thôi và bĩu môi đi qua, hay về fb viết các
thông tin vừa chạy ra đó lên tường thì thật đáng tiếc
Một điều thành thực nữa, đã vào fb viết, rồi còm qua còm lại là
thiếu chánh niệm rồi. Dù có biện luận là tôi đang chánh niệm và nói về văn tuệ,
nhưng khi đề cập tới một người thứ ba ngoài câu chuyện còm hai người thì đó vẫn
là tà niệm. Nếu đã là lời giảng hãy trực chỉ lộ trình tâm, hoặc dừng lại và
nhắc người kia tự tàm quý lại mình.
Bản thân người viết (tôi – dùng từ này bản ngã nhỉ) là một người
có 6 trí thông minh bằng nhau, tfrc 180, nghề được khuyên là làm luật sư. Nên
hiểu biết nhiều việc, giỏi nhiều việc. Nhưng nếu lấy sự thông minh, giỏi lý
luận để bào chữa cho bản ngã của mình, thậm chí cho rằng nó là Vô thường, vô
ngã để bào chữa cho các lộ trình tâm mình thì thật sự tất cả giống như hồ sơ
thụ án: không đủ chứng cứ để xác minh tội danh. Nên hồ sơ thì treo, người phạm
tội lại được thả.
Cuộc chiến tranh nào thì cũng đầy đau thương và đổ máu. Cuộc
chiến với bản ngã cũng vậy. Đó là những tâm tư rối bời. Đó là những lần ngồi
thiền không thể vào định. Đó là sự sợ hãi người nọ người kia hiểu sai mình. Đó
là sự bất an khi ai đó cho rằng mình làm chưa tốt. Nhưng bạn lại không muốn
thừa nhận những sự đau đớn đó, tìm cách lảng trách và gói chúng lại trong Vô
thường, vô ngã.
Người viết cũng đã có thời: Để làm người tốt, để được khác nói
là tốt, phải gồng mình, phải luôn tìm cách thể hiện, luôn tìm cách làm gương.
Nhưng đổi lại là gì, không dám nhớ nữa. Vì thật sự viết đến đây, cũng thấy nhoi
nhói trong lòng, như vậy là bạn đủ hiểu.
Thế nên, hãy cứ chọn cho mình một cách sống thoải mái, với chính
tâm trạng và cảm xúc của mình. Thích uống bia, uống bia. Thích chửi bậy, chửi
bậy. Thích viết, viết. Thích khóc, khóc. Đó k phải là lối sống buông thả. Mà
với người có pháp học, pháp hành rồi. Đó là cơ hội để các kiết sử ngủ ngầm, vô
minh được bộc lộ. Có như vậy mới có cơ hội đào nó lên, phơi nó ra, làm cho khô
héo. Cái cây xanh tốt, k ai biết dưới gốc rễ thế nào trừ khi đào nó. Đây là giai
đoạn đau đớn. Cần liên tục quán tâm, quán pháp và có các đạo hữu hay thầy bên
cạnh nhắc nhở. Vì đã thành thục quán thân, và thực hành hiểu được chánh niệm
tỉnh giác rồi thì những tật xấu sẽ đến và đi nhanh thôi. Hãy nhớ, nếu còn sợ và
ngại ai đó chê bai, là còn vun bồi cho bản ngã.
Chính vì thế, chúng tôi có một Group “Tám tà” vừa là
ngược lại Tám chánh, vừa là chuyên “tám” chuyện tà, cũng chỉ để là
soi tâm thật của mình, của nhau, cùng nhau sách tấn thực hành trên con đường
gian nan này.
Nếu khó thiền định, thiền quán do tâm vọng, hoặc chìm sâu trong
định nhiều không quán được, hãy Viết trước hoặc sau khi thiền, bạn sẽ quét được
nhiều phết.
Mình viết nhiều vì nói thật nhà mình quá nhiều rác, k thừa nhận
và k phá cái bản ngã này thì sẽ còn khô quắt vì tâm tư chồng chéo.
P.s: cẩn thận với việc viết nhiều được nhiều người khen hay,
khoái chí càng viết ác, càng thích thể hiện ta đây văn tuệ tốt, có thể làm
thầy, có thể ra giảng cho thiên hạ, lại càng vô tình vun bồi bản ngã
Ngày nhập trường, cái mà các bậc cha mẹ bàn nhau, tại sao chọn
trường này hay trường kia chính là mong cho con được ăn học, được dạy dỗ để sau
này con lớn lên dễ thích nghi với môi trường, với xã hội. Mà có biết rằng,
chính chúng ta, cũng luôn tự mong muốn mình có khả năng thích nghi với điều
kiện, ngoại cảnh sống.
Khả năng thích nghi là một lối sống tích cực, không ngại khó,
không ngại khổ, không ngại sự thay đổi, ngoài vùng thoải mái. Chính vì vậy,
người có khả năng thích nghi luôn nắm bắt rất nhanh với cuộc sống ngoại cảnh,
không bị ngoại cảnh gây khó chịu, bất an, lo lắng, hay sợ hãi. Người thích nghi
là người chấp nhận gian khổ, chấp nhận sai, chấp nhận hỏng và cả chấp nhận mất
mát. Và khả năng thích nghi của mỗi người được ví như loài Tắc kè – liên tục
biến hóa. Nhưng có thực như vậy?
Phương pháp để thích nghi?
1. Sự rèn luyện: Một người khả năng chịu được nhiệt độ thoải mái
là 25 độ C, nhưng là một nhà tình báo, một trinh sát, người này bắt buộc phải
làm việc ở vùng lạnh giá hay sa mạc, thì người này hoàn toàn có khả năng thích
nghi do đã được rèn luyện để làm quen với điều đó. Tuy nhiên, phương pháp này
đòi hỏi công phu tập luyện, tạo sự thích ứng của từng loại giác quan thậm chí
thích ứng với từng đối tượng ngoại cảnh. Mà ngoại cảnh thì luôn biến đổi không
ngừng, mà thời gian thì có có hạn, nhiều khi cảnh xảy ra đột ngột mà chưa có sự
rèn luyện thì coi như rơi vào khủng hoảng.
2. Sự chấp nhận: Ví dụ Covid vừa rồi, thì việc cách ly, khiến
chúng ta phải thích nghi với việc bị chôn chân ở nhà cả tháng trời. Chúng ta
phải chấp nhận điều này vì đó là quy định xã hội, điều kiện ngoại cảnh bắt
buộc. Khi chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta sẽ thấy thích nghi với sự kiện
xảy ra bên ngoài chúng ta. Nhưng sự chấp nhận là miễn cưỡng, tạo quy định từ
bên ngoài và người thực hiện buộc phải theo. Nó vẫn tạo ra sự thích nghi, nhưng
là sự thích nghi giả tạm, tạm thời. Ví dụ: nhà nước quy định 14, thì trong 14
ngày sẽ cảm thấy thích nghi, nhưng sang ngày thứ 15 mà chưa dỡ bỏ là khó chịu.
3. Quán tưởng: Có nhiều phương pháp dạy chúng ta thích nghi bằng
cách tưởng tượng. Giống như câu chuyện con Cá gỗ vậy. Nhớ xưa ở phòng trọ nóng
quá, tưởng tượng xung quanh trời không nóng, tự kỉ ám thị là không có nóng để
cảm thấy là xung quanh nó mát. Cũng thấy đỡ nóng hơn thật. Nhưng chúng ta lại
luôn có một cái ngã tồn tại ở đó, mà bình thường khó có thể nhận ra. Dù là liên
tục tự kỉ ám thị nhưng nó không đồng ý thì nó vẫn hành xử theo cách của nó.
Giống như một đứa bé, nhìn thấy phích nước nóng, người lớn có quát lên: nóng,
nóng, nóng…. nó vẫn cứ phải đưa tay sờ một cái mới chịu được. Ngoại cảnh mới
thay đổi, và nếu tương thích với tham sân si của mỗi người thì nó vẫn sẽ phản
ứng một cái đã rồi mới chịu nghe lời ông bạn tự kỉ ám thị. Tức là sự kiện thích
nghi vẫn xảy ra sau. Mà nhiều khi sự đã rồi thì cũng xong.
4. Sự thấu hiểu: Sự thấu hiểu này có vẻ giống chấp nhận, nhưng
không phải như vậy. Sự thấu hiểu là hiểu nguyên nhân, lý do tại sao lại như
thế. Hiểu chúng ta cần làm gì. Hiểu không có cái tôi, cái ta nào làm chủ cuộc
sống ở đây. Hiểu không có gì là thường hằng, bất biến ở đây. Sự hiểu đó là thật
sự, là thực chứng rõ nét, khiến cả thân và tâm chấp thuận thực sự. Vẫn ví dụ
đứa trẻ thấy phích nước ở trên: nếu nhắc nóng nóng thì nó vẫn thử tiếp đã.
Nhưng khi nó thực chứng, sờ tay vào thấy nóng rõ ràng (hãy quan sát lại một đứa
trẻ sờ phích nước, vì bị nhắc nóng nên nó cũng cẩn thận, rón rén thò tay ra,
nhưng thấy chưa đủ nóng, nó k tin, và lại thò tay ra lại, để lâu hơn, lần này
nóng rõ ràng thì nó mới bỏ đi), là sự thấu hiểu thực sự thì lần sau nó sẽ không
sờ nữa. Giống như sự thấu hiểu về Vô thường, Vô ngã ở trên cũng vậy. Nếu chỉ
niệm, niệm.. và tư duy hiểu vậy thôi thì không thể có thực chứng rõ nét. Để
thực chứng rõ nét về vô thường, vô ngã, đòi hỏi công phu tu tập trên các xúc
xứ, chà đi chà lại, tạo nên một sự nhạy bén về chánh niệm, dẫn tới trí tuệ thực
sự về đối tượng.
Có một điểm, 3 phương pháp có được sự thích nghi ở trên, thì vẫn
luôn bị nhỡ một nhịp so với sự kiện xảy ra, và liên tục phải tập luyện để khi
thay đổi ngoại cảnh thì chúng ta có khả năng thích nghi. Vì hiện tướng của
ngoại cảnh chẳng bao giờ giống nhau, dù là cùng một biến số. Nhưng với pp thứ
4, thì khi có thể thuần thục trên một đối tượng, khi có thể thấu hiểu về một
điều, thì sẽ thấy vạn pháp như một, cũng chỉ là sự biến tướng của tâm mà thôi.
Chính vì vậy, sự thích nghi sẽ lập tức bắt kịp khi có đối tượng mới xảy đến.
Với 3 pp trước, thì cảnh thay đổi, tâm cũng đổi theo để thính
nghi. Nên sự thích nghi được ví như con tắc kè hoa. Và cũng chính vì hiểu biết
như vậy, nên mới có câu: đổi tâm không đổi cảnh. Vì rằng cảnh là như vậy, thì
để thích ứng thì tâm thay đổi theo để thích nghi. Nhưng với pp thứ 4, thì dường
như cảnh đổi, nhưng tâm không có bị thay đổi theo. Giống như cái bánh xe, vòng
ngoài cùng cứ xoay, còn trục lõi thì cứ đứng yên vậy. Ở đây, k phải là hiểu
rằng tâm là một cục thống nhất. Mà sự thích nghi này là do hiểu đúng về tâm là
ngũ uẩn, về nguyên nhân – duyên khởi có mặt, do hiểu đúng về thế giới bên ngoài
là biến tướng của tâm, nên chẳng còn bận tâm gì tới cảnh, cũng chẳng bận tâm gì
tới tâm. Vì tâm cũng chỉ là ngũ uẩn, nó cũng vô thường, vô ngã vậy. Tâm thay
đổi liên tục, và cái chúng ta thấy về trần cảnh là các cảm giác cũng thay đổi
theo liên tục. Chúng cứ thế mà diễu hành xuất thế gian.
p/s: thôi thì trước mắt mẹ cứ cho con được rèn luyện để thích
nghi, lớn chút nữa mẹ dạy BCĐ cho con nhé.
Lên Đồng, giải mã bí mật pháp hành theo ngôn ngữ kiểu Phật gia
và Đạo gia
Lên đồng hay hầu đồng, là một nghi lễ trong văn hóa Đạo Mẫu.
Lịch sử Đạo Mẫu được các nhà nghiên cứu lịch sử chỉ ra rằng có từ thời tiền sử,
mà dân tộc ta dùng để thờ Mẫu (Mẹ thiên nhiên, Mẹ Âu cơ, Mẫu Liễu hạnh …).
Lên đồng là hình thức giao tiếp với thần linh thông qua Thanh đồng – dạng trung
gian, kiểu như tivi tiếp thu sóng vô tuyến và phát lại vậy, một dạng vong bậc
cao nhập.
Tại sao lên đồng có thể kết nối với thần linh?
Hãy quan sát, mỗi thanh đồng được chụp một cái khăn đỏ, rộng,
kín. Sau khi chụp khăn, thì mắt không nhìn thấy gì, tai cũng ít nghe – ngăn trừ
được ối phiền não từ bên ngoài. Mũi bị khăn trùm dẫn tới khó thở, hơi thở toàn
khí cacbon nên phải hô hấp mạnh hơn để hấp thu khí oxy còn dư. Cũng vậy, thân
thể, nhất là trời nóng, ngoài trang phục của Thanh đồng, lại thêm cái khăn nên
nóng bức, thân nhiệt tăng. Lúc này, Thanh đồng cảm nhận rõ hơi thở vào ra, cảm
nhận rõ cái nóng trên thân thể, lại thêm không nghe thấy gì, không nhìn thấy
gì, nên các cảm giác nơi hơi thở và thân là nổi trội, k mất công chú tâm mà tự
động chú tâm. Vì vậy, dẫn tới sự tự động tinh tấn đưa tới định.
Có một điểm mà những người đi xem hầu đồng đều thấy, là những
Thanh đồng này sau khi trùm khăn một lúc thì bắt đầu lắc nhè nhẹ. Những người
hát chầu văn bên ngoài thì: lậy cô, cô về… Như một lời nhắc nhở: cái thân xác
này không phải của ta, ta đừng chú tâm lên đó nữa, mà để ý vào sự rung lắc, kết
nối đi. Và việc lắc lư này tiếp tục diễn ra theo lời hát của các cung văn.
Sau đó, tới đoạn í i a, í à ỉ a… thì Thanh đồng bỗng giật
khực, người đứng im. Lúc đó được hiểu như thần linh đã nhập vào thanh đồng rồi
đó. Mà bên tu thiền gọi là nhập định – chẳng thấy hơi thở đâu nữa, chẳng thấy
thân đâu nữa… Trạng thái này được miêu tả trong rất nhiều trong các kiểu
hướng dẫn thiền. Nhưng thực chất đó là do người thực hành đang đánh mất ý thức
tâm trí, hoàn toàn k còn sự minh sát, hay tuệ tri mà Đức Phật đã nói tới trong
Kinh tứ niệm xứ. Một số người có thực hành thiền minh sát nhưng khi việc quan
sát thô đưa tới định được xảy ra, rơi vào không tầm không tứ của nhị thiền thì
bắt đầu trượt vào tà định do ham mê trạng thái bặt bặt, vắng vắng, lặng lặng do
định sinh này. Trong hầu đồng hay bên ngoài thực hành đều bắt gặp những người
như vậy: đứng dậy, bắt đầu múa, giảng, thuyết, ban truyền ý chỉ của thần linh,
các vị ở trển, cho rằng ta có cái lọ, ta có cái chai, thế này mới là pháp, thế
này mới là đích….
Cũng vì việc nhập định nhanh như vậy, lại có khả năng kết nối
với thần linh biết việc đông, việc tây, nên một số trường phái khí công, đạo
gia đã áp dụng thực hành cả ngàn năm trước với nhiều tên gọi mỹ miều. Bản thân
người viết cũng tham gia rất nhiều buổi hầu đồng, và thực hành, trải nghiệm
phương pháp lắc lư của khí công theo kiểu thanh đồng này từ gần 10 năm trước.
Theo khí công, đạo gia, thì phương pháp lên đồng này, sẽ giải
phóng khí bị ứ trệ ở trung khu DỤC của thân (phần dưới rốn, vì khi lắc giữ
nguyên thân trên và vai, cổ, đầu). Nhất là với người ngồi thiền nhiều, thì sẽ
bị ứ trệ, táo bón, khả năng SHTD kém. Chính vì vậy, những môn sinh khí công đạo
gia vô cùng thích thú phương pháp này. Vì ngoài việc nhập định nhanh, có khả
năng thông linh thì khả năng sinh lý được cải thiện, thậm chí có thể “tự
sướng” khi đang tọa thiền, k mất công tìm đối tác.
Đó là những cái lợi ít ai biết của kiểu Lên đồng trong Đạo Mẫu
mà các hành giả Phật gia (dùng để dễ vào định) và Đạo gia (dùng để giải phóng
khí ứ trệ) bí mật thực hiện.
Nhưng chẳng biết nó bổ ngang, bổ dọc chỗ nào, mấy cục tham sân
si sau khi thoát “đồng” vẫn to một cục, cứng chắc như đồng. Đặc biệt
là tham dục chẳng thể vợi đi mà chỉ có thấy dưỡng trưởng ngày càng mạnh mẽ.
Chắc p thực hành thêm chục năm nữa mới chán cái món này. Ly dục, ly bất thiện
pháp đâu không thấy, thấy lù lù một con “ma” to vật. Tí té ngửa.
Đã là tu thiền, thực hành thiền thì k thể nói là tự nhiên như
nhiên được (đó là trạng thái tâm thành tựu), nhưng cần phải biết nó là sự tác ý
chân chính. Thiền là một trạng thái tâm, mà k phải có thể chỉ dùng kỹ thuật để
đạt được.
Sơ thiền: ly dục, ly bất thiện pháp
Nhị thiền: nội tĩnh nhất tâm
Tam thiền: xả niệm lạc trú
Tứ thiền: k lạc, k khổ, tâm thanh tịnh nhờ xả
Chưa cần nói sự nhầm lẫn hiểu Thiền là Định thì ngay từ đầu, đã
khởi niệm Dục để vào định, mong có định, nhanh có định, khi có định tự mãn với
định, cho rằng định là thường hằng mà trú trong định thì làm gì có Ly dục, Ly
bất thiện pháp nên không bao giờ là Chánh định được.
Chưa nói tới Thiền (thiền quán) theo phương pháp Tứ niệm xứ là
sự thực hành minh sát, TỪ TỪ với các đối tượng sinh khởi có nhân duyên hay với
không do nhân duyên để tạo ra sự Nhạy bén của tâm, thấy biết như thực về thực
tánh của pháp, chứ không phải do Văn – Tư mà đúc kết lên, thì vẫn cần nhớ DỤC
TỐC BẤT ĐẠT.
Hôm nay, lễ xá tội vong nhân, em nhập đồng, lên huyên thuyên với
làng FB. Đấy, mướp nhà em không chỉ có Thẳng, Cong mà còn cả Xoắn nhá.
Thầy giáo ngẩng đầu lên, chậm rãi nói: “Đúng thế, mọi người
đều nhìn thấy rất rõ, phép tính này ta đã tính sai rồi. Nhưng 3 phép tính trước
tính đúng, tại sao không có một ai khen ta mà chỉ nhìn thấy và lập tức chỉ ra
phép tính sai của ta?”
ĐẠO LÝ 100 – 1 = 0
Làm người cũng vậy, khi bạn đối xử tử tế với người khác 100 lần,
họ có thể cũng chẳng nhớ, nhưng chỉ 1 lần bạn làm họ phật ý, họ sẽ nhớ rất lâu
và có thể phủ nhận hoàn toàn những điều tốt đẹp mà bạn dành cho họ. Đó chính là
đạo lý 100 – 1 = 0.
Người xưa có câu: Cho một bát gạo thành ân nhân, cho một bao gạo
thành kẻ thù. Có những người đã quen với việc được cho mà dễ dàng quên ơn huệ.
Không phải ai ai cũng hiểu được hai chữ “lương tâm”!
Cho dù bạn sở hữu cả chục cái tốt cái hay nhưng chỉ cần có một
cái không tốt, nó sẽ là cái cớ để xóa sạch sẽ mọi cố gắng nỗ lực của bạn. Cho
dù bạn dốc hết tâm huyết ra vì người khác, nhưng chỉ một việc không đúng, bạn
sẽ trở thành tội đồ trong mắt họ.
Câu chuyện kết
luận: Trong cuộc sống này có một số người, bạn giúp họ cả trăm lần họ không có
được một lời cảm ơn. Nhưng chỉ một lần không giúp, họ quay ra hận bạn. Bao
nhiêu cố gắng nỗ lực bỏ ra vì người khác, thứ bạn nhận lại được không phải là
sự chân thành mà chỉ là nỗi cay đắng.
Nhiều người
đồng tình câu chuyện trên, và cho rằng ta đã chỉ sai có một lần thôi, công bù
tội là được. Hoặc cái sai đó là chẳng may, tại sao mọi người không nhìn thấy
cái tốt, cái ta đã làm vì người khác cơ chứ.
Nhưng, nếu bạn
thật sự bước trên con đường đạo, một niệm tà thôi, bạn đã trật khỏi cả con
đường. Không phải chỉ là một việc tốt, mà bao nhiêu năm tu tập, bao nhiêu công
phu thực hành cũng coi như đổ sông đổ bể. Đừng tự cho rằng: ta cần làm thế vì
ai đó, ta làm sai nhưng cần được mọi người bỏ qua thông cảm. Nếu mình không thể
tự chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm, không thể hiểu sự nguy hại của
một lần sai nó như thế nào, thì một lần có thể mắc lỗi được tha thứ, không chắc
rằng sẽ không có lần thứ hai.
Khi chưa đạt
quả thánh thật sự (không phải quả thánh do ta tự nghĩ, hoặc được một số người
khác tán dương), thì trên đường tu tập vô cùng nhiều cám dỗ, càng chạm gần tới
“báu vật” càng nhiều những khó khăn, càng cần những nỗ lực, càng cần
những sự cẩn trọng từng chút một. Nếu không thể nhạy bén soi xét từng suy nghĩ,
hành động nơi 6 giác quan của mình, mải mê với những việc bạn cho rằng mình
không sai, bỏ qua lời nhắc nhở của người khác, tự cho mình quyền sai giữa hàng
ngàn nỗ lực, là bạn tự đào mồ chôn mình rồi.
Sự thật của tự
nhiên: 100 – 1 = 0
(Nếu có thể hiểu một bước đi sai như sóng thần, động đất, lũ
lụt, cháy rừng… mà còn hơn thế nữa khi một bước đi này liên quan tới sinh tử
không chỉ một đời mà ngàn đời hóa kiếp của bạn và người khác)
Đời sống an vui là kết quả tất yếu của một người có Tâm tu tập.
Do vì đa số chúng ta đều không có được cuộc sống an vui như ý, nên cho rằng Tu
là để có đời sống an vui, thế là đủ rồi. Nhưng đó không phải là cái kết quả
cuối cùng của việc tu tập hay cơ hội làm người cần làm.
Ngược lại, có đời sống an vui, chấp thủ vào đời sống an vui là
thường hằng, bất biến, thì có thể bạn còn càng khổ hơn. Vì sự thực thế gian vạn
vật vốn dĩ vô thường, vô ngã. An vui đến chóng vánh trong phút chốc, đau khổ
liền theo sau mà ta lại chẳng thể làm gì được với cái việc vui buồn của thế
gian.
Tuy nhiên, đừng vì thế mà cho rằng một người biết tới việc cần
làm, biết tới con đường cần đi đang tự mình bị Áp lực vào nó. Vì rằng, người đã
biết việc cần làm thì sẽ hiểu một điều: để có thể đi hết con đường thì không
thể mang theo một tư tưởng, một chấp thủ nào cả. Nếu chẳng may họ mắc lỗi, thì
Tàm, Quý luôn là tài sản họ mang theo bên mình, nhắc nhở họ sửa lỗi. Bên cạnh,
luôn có Minh sư chỉ lối, có hảo đạo hữu thân cận nhắc nhở. Quan trọng có pháp
mà Đức Thế Tôn đã truyền dạy.
Dù rằng, nương tựa nơi chính mình, không nương tựa ai khác.
Nhưng trên con đường thực hành Chánh pháp, Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) vẫn là
thứ không thể thiếu của một hành giả chân chính.
Do fb của mình k up công việc làm ăn, con thì đã lớn, chồng thì
tu thiền nên k có nhu cầu up về gia đình, vì vậy mà bạn bè nghĩ rằng mình mải
tu quá bỏ bê hết cả gia đình ck con và công ty. Thực ra, mình k care tới việc
người khác nghĩ gì về mình. Mà care tới các quan điểm họ đã đưa ra cho mình:
– tu là để sống thoải mái, bình an em ạ, không phải tu nhiều
thế, thấy hạnh phúc, an lạc là được rồi
– tu để không chấp thủ, thấy tâm không ràng buộc vào bất cứ việc
gì trên đời, cả hữu vi hay vô vi
– tu để thấy ra Niết bàn nơi không sinh không diệt… hay cụ thể
hơn là ngồi thiền thấy ra cái khoảng lặng lặng đó, tâm thấy ra sự vắng mặt của
buồn vui, hay là tâm xả trong cuộc sống đó là được rồi…
Vậy là các lời khuyên từ bình dị tới cao siêu mình đều đã được
nghe. Có thể nhiều hơn, nhưng mình tạm ghi ngần đó. Thật sự đến giờ phút này
hỏi mình tu để làm gì, tại sao mình tu thì mình cũng quên mất rồi. Không phải
để nói rằng mình đang tu tù mù, k định hướng. Hoặc là đọc xong tút này lại bảo:
nói bảo k lý do mà lý do quá áp lực luôn. K hẳn là thế mà: Lý do đó k thường
trực trong đầu nên nhất thời k thể nhớ ra, cũng như lý do đó đã được xác lập,
con đường đã được vẽ thì cứ thể mà đi thôi. Muốn nhanh cũng không được, chậm
cũng một ngày hết 24h. Còn về lý thuyết mình được nghe đâu đó thì tu là để chấm
dứt khổ và tiến tới chấm dứt luân hồi tái sinh.
Quan niệm 1: Tu để chấm dứt khổ thì bạn cũng biết rồi. Vì thế mà
bạn đi chùa, tìm những phút giây tịch mịch, vắng vẻ nơi cửa chùa, buông mình
thư thái theo tiếng đọc kinh hay chuông vang. Thực hành vài thời tọa thiền để
tâm tư được thanh thản, những áp lực công việc, cuộc sống được lắng xuống. Sự
bình an đó với bạn đó là quá đủ rồi. Cảm giác đó sẽ được kéo dài từ ở chùa về
tới gia đình. Nếu có việc gì không an yên xảy tới: những lời kinh: vạn vật là
vô thường, khổ, vô ngã lại được vang lên trong đầu. Và như một liều thuốc giảm
đau, sự kiện đó lại qua đi, trở lại trạng thái bình yên trong tâm.
Nghe có vẻ cao cấp hơn việc ở trên đó là không chấp trước vào
bất cứ việc gì trên đời. Thực ra đó là một câu nói diễn đạt của Tâm giải thoát
– cụm từ trong Kinh Phật. Bạn biết Thân Tâm này do Sắc Thọ Tưởng Hành Thức –
ngũ uẩn mà hợp thành. Việc chấp thủ, dính mắc ràng buộc Ngũ uẩn hay tóm lại Tâm
bị chấp thủ, dẫn tới Khổ. Mà trong Kinh, Phật có nói: ngũ thủ uẩn là khổ. Vậy
thì k còn chấp trước, k còn dính mắc là hết khổ rồi còn gì. Còn đi tìm cái gì
nữa.
Một việc cao siêu hơn, mà nhiều người bình thường k thực hành thiền
không biết, nhưng người thực hành thiền thì cho rằng: ngồi thiền vào định là
quá tốt rồi. Định thật lâu, thật sâu. Rồi bàn về các trạng thái: vắng mặt suy
nghĩ, vắng cả hơi thở, hay hơi thở như mất không thấy đâu. Rồi bàn về những
khoảng lặng trong thiền, các cõi miền trong đó…. Đúng là chẳng còn gì bằng
khi ngồi đó mà thấy như không ngồi, thấy như một cục ngồi vậy. Nó chẳng liên
quan tới mình. Chẳng đau mỏi tê nhức, chẳng còn khởi lên suy nghĩ gì với đời
sống thế gian này nữa. Một trạng thái lâng lâng, phê phê, sung mãn toàn thân,
tràn đầy năng lượng. Và được định nghĩa bằng vô vàn từ mỹ miều cũng có, hay khó
hiểu cũng có, không định nghĩa nữa cũng có. Tóm lại là rất thích, thiền đi thì
biết. Và cứ người trước truyền tai người kia, thiền đi, thích lắm, thiền đi,
phê lắm…
Và như vậy là ok lắm rồi phải không? Còn cần gì nữa, khi mình
thấy khổ, mình đã hết khổ do không chấp thủ. Khi mình muốn vui, mình đã có
thiền đem lại hỷ lạc.
Quan điểm 2: tu để chấm dứt luân hồi tái sinh. Cái này bạn cũng
nghe phong phanh qua. Nhưng mà kèm theo đó là: nghe đâu cái này khó lắm; tu ba
vạn a tăng tì kiếp mới được cơ mà; ôi, còn tại gia, tu thế tu nữa vẫn tái sinh
thôi; uầy, tham quá rồi, muốn tái sanh, không tái sanh, đâu dễ thế; sống còn
chưa xong, bàn chuyện tái sanh sao nổi; người làm chưa được, đã đòi làm
thánh… Dưới góc nào đó, điều này được xem là đúng.
Tu ba vạn a tăng tì kiếp: vì tu sai đường, tu trật hướng, tu mà
không hiểu cần tu cái gì, càng tu càng chấp thủ. Càng tu càng hoài nghi: chẳng
b cái gì đúng cái gì sai nữa, rõ ràng bảo đừng chấp thủ đúng sai mà sao mình
thấy rõ ràng có sai có đúng. Càng tu càng đi vào giới cấm thủ: thực hành giới
một cách miễn cưỡng, gò ép, áp đặt…
Tái sinh đâu phải muốn là được, không muốn là được: muốn không
tái sinh thì phải tu thôi, nhưng khi tu rồi lại buông cả cái muốn mà vì vậy do
không khởi ý về tái sinh mà vượt qua được tái sinh. Nhưng chỗ này vi tế lắm
nha. Tâm hữu ái con người còn nguyên đó. Thử bước trên bờ thành của tòa nhà 30
tầng xem chân run không?
Làm người chưa xong đã đòi làm thánh: câu này không mang ý chỉ
trích các thánh chém gió, mà thật là cần xem lại về cách thực hành. Trong bài
Đại kinh 40, Trung bộ Kinh – Nikaya, Thế Tôn có nói về việc tu Bát chánh đạo
Siêu thế dành cho các vị có Thánh tâm, hiền tâm, siêu thế tâm, vô lậu tâm.
Trong Kinh cũng đề cập: tu tập Siêu thế có 10 chánh, gồm 8 chánh ai cũng biết
thì còn Chánh trí và Chánh giải thoát. Nên thật là, nếu không làm người cho tốt
trước, không tu tập được Tâm trước thì đừng nói tới tu tập Siêu thế. Mà người
tu Đạo gia có nói một câu: tâm chưa Vô vi đừng đòi tu pháp Vô vi.
Vậy chẳng nhẽ, không thể tu tập được chấm dứt Luân hồi tái sinh
sao? Hay tu không còn chấp trước, thấy ra Niết bàn, ngồi thiền thấy ra khoẳng
lặng lặng … thì là OK rồi. Kiếp này làm người k thấy khổ, khi chết rơi vào
khoẳng lặng là không tái sinh?
Không đơn giản vậy các bạn ạ. Nhưng cũng không quá phức tạp hay
ghê gớm ở cõi nào, hay phải luyện cho trả hết nghiệp, 3 vạn a tăng tì kiếp mới
xong. Mà cần hiểu đúng về CÁI GÌ ĐI LUÂN HỒI TÁI SINH?
Trước khi nói tiếp, thì cần làm rõ một vấn đề này với bạn: không
tái sinh, không có nghĩa là không tái sinh làm NGƯỜI là đủ. Hãy đọc kỹ các bài
Kinh của Phật, dù là kinh Tiểu thừa hay Đại thừa đều nói về việc các vị chư
Thiên vẫn có mong muốn tu tập pháp của Phật để được chấm dứt Luân hồi tái sinh.
Vì rằng: kiếp người tu mãi lên cõi Tiên, cõi Thiên. Ở hai cõi đó chơi mãi cả
vạn năm rồi lại xuống làm người. Cứ luẩn quẩn vậy.
Vậy các vị đã là Thiên là Tiên, sao vẫn còn muốn tu tập, và thậm
chí còn coi Kiếp người là cơ hội lớn để tu Giải thoát, vì ở cõi vô sắc kia không
có Thân để mà hành vậy. Các vị ấy quyền năng, quyền lực, còn gì chưa biết mà
sao vẫn còn Tái sinh? Nhưng việc chấm dứt tái sinh đó vẫn là có thể. Vì trong
các bài kinh có nói, thậm chí các vị Thiên, Tiên chỉ cần sau khi nghe một bài
pháp của Thế Tôn đã “hiểu ra vấn đề”. Vâng, hiểu ra vấn đề ở đây
chính là Tuệ giải thoát – đây là khái niệm được Phật nói rất nhiều trong các
bản Kinh trên con đường đưa tới giải thoát hoàn toàn. Nhưng khái niệm này không
được đề cập tới nhiều trong các tông phái sau này hoặc hiểu vẫn còn sai lệch
kiểu: tu để có trí tuệ.
Tất cả những lời khuyên các bạn dành cho tôi, hay về 2 quan điểm
được trình bày ở trên, mới đang đề cập đến TÂM GIẢI THOÁT, mà chưa hề đề cập
tới TUỆ GIẢI THOÁT. Có nhắc về SIÊU THẾ nhưng chưa bàn. Tuệ trong nhà Phật,
đang được bạn hiểu là Tu để có được Trí Tuệ – để hiểu về tam thiên, đại thiên
thế giới, để có sự thấu biết về chân tướng của vạn vật. Chân tướng là cái gì
thì cho rằng nó nằm trong hữu, trong vô hay cả không trong hữu trong vô. Quay
đi quay lại rốt vẫn chỉ là để không chấp thủ, dính mắc vào vạn vật là đủ.
Để hiểu rõ hơn về Tuệ giải thoát, hiểu rõ hơn về Luân hồi tái
sinh, các bạn có thể tìm đọc cuốn sách “LUÂN HỒI TÁI SINH” này của Sư
Nguyên Tuệ. – Nơi con đường đã được chỉ rõ, việc của chúng ta là đi.
Mong là việc tu hành của các bạn đã tu là đi cho hết con đường,
không chỉ dừng lại ở thấy bình an, an lạc, hay tâm xả, trạng thái định sâu…
như nhiều lời khuyên mình được nghe là đủ. Cần tìm hiểu thêm về một khái niệm:
Tuệ giải thoát, hiểu đúng về Tuệ giải thoát, về cách thực hành đưa đến Tuệ giải
thoát và Tuệ giải thoát đóng vai trò thế nào trong Luân hồi tái sinh.
Tâm chúng ta thường cảm thấy trống trải, không có việc gì để
làm.
Một người phóng tâm đi nghe một buổi hòa nhạc và một người đi
tìm rượu để uống cho vui về cơ bản không khác nhau.
Một kẻ đâm đầu vào kiếm tiền, nhìn đâu cũng ra tiền, lao mình
vào công việc về cơ bản cũng không khác người mang danh tu đạo nhưng nhìn đâu
cũng tưởng luận ra cái này cái kia, nghĩ chứng đắc này chứng đắc kia, tìm mọi
cách suy luận giải thích cho người này người kia.
Tâm tu hành là một tâm trong lành, tĩnh lặng thực sự, vắng mặt
cả buồn cả vui, vắng mặt mọi định nghĩa, lý giải, chứng ngộ. Tâm chỉ tác ý khi
duyên có một nhân là mình tới lúc phải trổ, không tự mình tìm kiếm, soi bới hay
phan duyên với bất cứ việc gì trên đời.
Khi thất niệm, nhận biết mình thất niệm thì còn có khả năng cứu
chữa. Còn chưa thể biết niệm là gì, đã kết luận mình Vô niệm thì đúng là vô
phương. Sự vống lên của bản ngã đều để lại dấu vết nên đừng sao chép hay cố tỏ
ra (giống Phật).
Covid-19 đã ở mức quá nguy hiểm rồi. Mọi người dạy nhau cách
phòng, chữa bệnh, tâm lý vượt qua đại dịch, lấy nguy làm cơ… chung quy là làm
cách nào để Sống Sót. Nhưng chẳng ai dạy cách để chết như thế nào cả. Có lẽ
chết là điều không ai mong muốn, cũng k ai muốn nhắc tới, cũng không ai muốn
chuẩn bị cho nó cả. Nhưng nếu bạn sẵn sàng đối diện với cái chết, chuẩn bị một
cách khá đầy đủ để chết, bạn sẽ có một cái chết “hoành tráng”, và hơn
thế nữa là một cơ hội Vượt qua Sinh Tử.
Search cụm từ “những điều cần làm trước khi chết” chỉ
thấy 101 điều cần làm để phục vụ cái Tôi, bản ngã. Làm thế nào để Vống cái Tôi
của mình lên, để thỏa mãn lòng Tham và lòng Dục. Chứ không hề có một list nào
nói tới việc chuẩn bị chết như thế nào cả. Khi chuẩn bị sinh con, người Mẹ
chuẩn bị cả 1001 việc để nuôi dưỡng, dạy dỗ, chăm bẵm con cái. Nhưng khi chuẩn
bị chết, đó chính là sự chuẩn bị của bạn, chứ không phải ai khác. Chúng ta quen
với khái niệm Di chúc, trên đó nói về việc phân chia tài sản, cổ phần, đất
đai… nhưng như vậy chưa đủ.
Giai đoạn cận tử, các thông tin về các việc mình chưa làm được,
những tham muốn, tham ái, sân hận, tiếc nuối… sẽ đổ dồn về và khiến bạn ra đi
không hề còn thanb thản, nhất là với người trẻ. Các công việc dưới đây, hoàn
toàn áp dụng được cho mọi người theo nhiều tôn giáo khác nhau, cả chủ nghĩa Vô
thần hay Thần học…
1. Đối với cha mẹ: nếu bạn còn cha mẹ già, đáng nhẽ việc chăm
sóc những ngày cuối đời là của bạn, nhưng nếu chẳng may bạn chết đi, công việc
đó ai sẽ làm? Và bạn cần làm gì cho cha mẹ bạn:
– nói lời Xin lỗi nếu bạn đã mắc lỗi với cha mẹ
– nói lời Cám ơn cha mẹ
– nói lời Con yêu Cha, con yêu Mẹ
– mua một combo nghỉ dưỡng dành tặng cha mẹ (không cần nhân dịp
gì đâu)
– chuẩn bị một lượng thuốc bổ đủ dùng
– chuẩn bị cho cha và mẹ mỗi người một sổ tiết kiệm nhỏ
– gửi tiết kiệm một khoản tiền để lấy lãi sau này thuê người
giúp việc chăm sóc các cụ
(Bạn có tới đâu bạn xài tới đó, không nhất thiết phải làm được
cả và nhiều)
2. Đối với bạn đời
– nói lời Xin lỗi Chồng/Vợ mình
– nói lời Cảm ơn anh ấy/cô ấy
– tha thứ cho anh ấy/cô ấy
– cùng nhau đi nghỉ một kì nghỉ mà k để bất cứ điều gì chen vào
– nếu có giá như hãy cho phép người kia đi bước nữa
– những tài sản chung của hai người chấp thuận cho anh/cô ấy sử
dụng để nuôi con
3. Đối với con cái
– luôn nói lời yêu thương/cảm ơn chúng
– dạy chúng các thói quen tốt luôn mỗi ngày: tự chăm sóc bản
thân, tự giác, tự lập, tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm và tình yêu thương
đúng cách; thêm kỷ luật, gọn gàng và sạch sẽ.
– dạy chúng biết chơi một môn nhạc và một môn thể thao
– dạy chúng cách không phụ thuộc vào cha mẹ, và làm cho chúng
hiểu rằng: tự chúng là một cá thể độc lập, cho chúng thấy chúng có thể tự mình
làm được nhiều việc
– cho chúng biết vai trò của cha và mẹ là như nhau, đều có thể
là người chúng cần
– mỗi đứa một sổ bảo hiểm nhân thọ hoặc một khoản tiết kiệm để
ăn học
4. Đối với công việc
– nói lời xin lỗi đồng nghiệp
– nói lời cảm ơn với những người đã giúp đỡ mình trong công việc
– tha thứ cho ai đó đã làm tổn hại đến công việc và công danh
của mình
– nếu là sếp: hãy lập 1 kế hoạch 5,3,1 năm cụ thể để ai đó kế
cận có thể tiếp bước sự nghiệp của bạn
– hãy tìm một người thân tín kế cận công việc của bạn, nhưng hãy
hoàn toàn tin tưởng họ, chấp nhận khả năng và trí tuệ của họ, và lường trước
việc sau khi tiếp quản họ làm đúng hay làm sai so với kế hoạch thì đều chấp
nhận
– nếu làm công ăn lương: hãy luôn sắp xếp tài liệu trong tư thế
sẵn sàng bàn giao: ds khách hàng, đối tác, các kế hoạch ngắn hạn….
5. Đối với chính mình
– hãy cảm ơn chính mình vì mình đã làm tốt nhất những gì có thể
– hãy tự tha thứ cho những lỗi lầm vô tình gây ra, đừng tự dằn
vặt chính mình
– chọn ra vài dự định, nơi bạn muốn đi để thực hiện sớm, nếu
không kịp, hãy học cách Buông vì đó cũng chỉ là tô điểm thêm cho cuộc đời bạn
– chuẩn bị một bảo hiểm nhân thọ hay một khoản tiền nhỏ đủ để
thuê dịch vụ làm ma
– nếu bạn bị bệnh hiểm nghèo, khó chữa, hay hoan hỉ như đó là
một điều lạ lùng mà cuộc sống đã dành tặng cho bạn. Chính việc lao vào dồn hết
tiền của để chữa bệnh chỉ làm cho người thân và chính bạn mệt mỏi hơn mà thôi.
– hãy chọn một bộ môn Thiền để thực hành – ít nhất điều đó đem
lại sự bình an cho bạn
– còn có thể hãy học và thực hành Bát chánh đạo – con đường đi
tới chứng ngộ và có khả năng giải thoát hoàn toàn.
Mình list được ngần này, thiếu hay đủ là ở phía bạn? Với mình,
ngần này việc đã và đang thực hành, giúp mình luôn ở trong tâm thế có thể sẵn
sàng đón nhận điều xấu nhất xảy ra. Vì thế mà không hoang mang, không sợ hãi,
không tìm cách tránh né, cũng không làm gì phải cuống lên. Con người vì Tham mà
nhiều dự định, mục tiêu, kế hoạch. Vì không thể tha thứ mà Sân còn tồn tại. Vì
các việc đã bắt đầu chưa thể kết thúc mà Si (kiếm tim) những giải pháp, cách
thức để giải quyết vấn đề. Nên là, Hãy vui tươi, mỉm cười, đơn giản, bạn đã
luôn sẵn sàng.
P/s: Học cách kết thúc tốt đẹp tất cả những cái đã bắt đầu và
không tác ý thiết lập lên mục tiêu tương lai nào cả, kể cả mục tiêu tu tập giải
thoát.