Tuệ minh sát

16 TẦNG TUỆ MINH SÁT CỦA THIỀN VIPASSANA ( TÓM TẮT)

1.Tuệ phân biệt Danh Sắc (Nāma-rūpapariccheda ñāṇa):

Tuệ tri thực tánh pháp trong sát na hiện tại.

Tuệ tri tướng trạng riêng biệt của từng danh pháp, từng sắc pháp trong sự tương giao danh-sắc.

Ví dụ, khi đi: ý muốn đi (danh) và động tác di chuyển (sắc),

hoặc động tác di chuyển (sắc) và tâm biết (danh) động tác di chuyển ấy, đang hỗ tương rất mật thiết nhưng lại hoàn toàn riêng biệt.

Nhờ nhận biết về danh – sắc, tà kiến về tự ngã được đoạn trừ. Tuệ này gọi là kiến tịnh (ditthivisuddhi)

2. Tuệ minh sát về nhân quả. (Paccayapariggaha ñāṇa)

TUỆ THẤY DUYÊN SINH

Hành giả tiếp tục quán sát chánh niệm Danh Sắc trong sát na hiện tại, tuệ tri nhân duyên (nguyên nhân và điều kiện) sinh khởi của từng danh pháp và sắc pháp.

Ví dụ: – Khi thấy, hành giả biết rõ danh pháp là nhãn thức khởi lên do duyên nhãn căn và sắc trần, có ngũ môn hướng tâm, trong điều kiện ánh sáng đầy đủ…

3.Tuệ thấu hiểu tam tướng (Sammāsana ñāṇa).

TUỆ THẤY DUYÊN DIỆT

Hành giả tiếp tục ghi nhận chánh niệm trên danh Sắc trong sát na hiện tại.

Hành giả thấy sâu hơn sự diệt và nhân duyên diệt của từng danh pháp, sắc pháp nên đạt được tuệ thứ 3 (sự sanh diệt vô thường, tính chất bất toại nguyện mang tính khổ đau và vô ngã của các pháp).

4. Tuệ sanh diệt (Udayabbayānupassanā-ñāṇa):

TUỆ THẤY SỰ SINH DIỆT LIÊN TỤC CỦA DANH SẮC

Tuệ này là cái thấy tổng hợp của ba tuệ trước.

Tuệ này càng thấy biết rõ ràng hơn ba tánh trạng chung của danh và sắc là vô thường, khổ não, vô ngã.

Điểm quan trọng:

– Do thấy được tánh trạng sự sinh (udaya) của danh và sắc nên trừ được “đoạn kiến” cho rằng diệt là sự chấm dứt hoàn toàn.

– Do thấy được tánh trạng sự diệt (vaya) của danh và sắc nên trừ được “thường kiến” cho rằng có sinh tức có sự liên tục tồn tại mãi mãi không bao giờ chấm dứt.

Thực ra diệt làm nhân cho sinh, đã sinh tất có diệt.

– Do thấy được sự sinh diệt liên tục mà hành giả vượt qua được mười pháp chướng ngại của thiền tuệ như: ánh sáng, trí sắc bén, hỷ, an, lạc, thắng giải, tinh cần , ứng niệm, xả, thỏa mãn.

– trên đây là trạng thái phi thường phát sinh trong tâm, nên hành giả dễ sinh ngã mạn, tự mãn, cho mình đã chứng đắc đạo quả.

5. Tuệ Diệt (Bhaṅga ñāṇa)

– Tuệ tri SỰ DIỆT NHANH CHÓNG CỦA DANH SẮC.

Hành giả thấy sự tan rã, phân tán, hoại diệt của nhanh chóng của danh sắc, làm hành giả chỉ chú ý đến sự diệt mà không chú ý đến sự sinh.

Đến đây loại trừ được điên đảo tưởng thường hằng (cho thân này là thường hằng, vĩnh cữu)

6. Tuệ Sợ hãi (Bhaya ñāṇa)

– Tuệ tri sự biến diệt, tan hoại của danh sắc là mối nguy hiểm đáng sợ.

-Thấy rỏ sự tham ái, đắm say trong danh sắc thì hậu quả thật đáng sợ.

– Khiến cho tham ái dừng lại, nhưng chưa trừ tận gốc.

7. tuệ thấy sự nguy hiểm của 5 uẩn (adīnava ñāṇa)

Tuệ thấy rõ sự nguy hiểm, sự bức bách, sự bất an, sự độc hại, sự bệnh hoạn… của tứ đại, của ngũ uẩn, của căn trần, nói chung là danh sắc.

8. tuệ nhàm chán (nibbidā ñāṇa)

Tuệ tri sự đáng nhàm chán của danh sắc.

Do kết quả tuệ thứ 7, nên không còn thấy có gì hấp dẫn để đam mê trong đó.

9. tuệ muốn giải thoát (muñcitukamyatā ñāṇa)

Tuệ tri sự cần yếu của THOÁT LY DANH SẮC.

Khi đã tuệ chứng khổ đế trong danh sắc.

Thấy rỏ 3 cõi là nhà lửa, muốn cắt đức mọi trói buộc để nhanh chóng thoát ra ngoài.

10. tuệ suy tư (patisaṅkhā -ñāṇa)

Trải qua tuệ muốn giải thoát, ở đây tuệ giác suy tư về tam pháp ấn, hành giả càng thấy rỏ đặc tính sinh diệt, chúng là rỗng không, không thể sở hữu, không thể kiểm soát của danh sắc.

Quan trọng là tuệ này đã tìm thấy con đường thoát ly (Đạo đế)

11. tuệ hành xã (saṅkhāra upekkhā ñāṇa)

Tuệ tri trạng thái bình lặng của các tâm hành, chuẩn bị cho tiến trình Thánh Đạo.

Không còn chấp thủ hay tham ái đối với ngũ uẩn.

12. tuệ thuận thứ (saccānulomika ñāṇa)

Tuệ tri trạng thái thuận nhập dòng Thánh Đạo.

(chứng ngộ Tứ Thánh Đế)

– một trạng thái hoàn toàn bình lặng trong sáng, lúc bấy giờ tâm hành giả tự động thuận nhập vào Đạo lộ của các bậc Thánh.

– Chuẩn bị cho Thánh Đạo Tâm

– Cận hành Thánh Đạo Tâm

– Thuận thứ Thánh Đạo

13. tuệ chuyển tánh (gotrabhu ñāṇa)

Tuệ tri trạng thái chuyển hóa từ phàm qua Thánh.

Lộ trình tâm chuyển sang đạo tuệ, lấy đối tượng là niết bàn.

Mặc dù danh sắc đã buông bỏ nhưng Tâm còn là tâm hiệp thế.

Vẫn chưa hoàn toàn đoạn tận các lậu hoặc.

14. đạo tuệ (magga): tri kiến thanh tịnh

Trí tuệ xuất hiện trong tâm siêu thế gọi là Đạo Tuệ.

Khi Đạo Tuệ xuất hiện lần đầu tiên gọi là Tâm Đạo Tu Đà Hoàn, Tâm Đạo hoạt động trong một sát na, nhưng nó giảm bớt sự tái sanh trong tương lai chỉ còn nhiều nhất là bảy lần ( không còn rơi vào bốn ác đạo).

Tuệ này đã hoàn toàn đoạn tận ba kiết sử đầu: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.

Khi tâm đạo xuất hiện thêm 3 lần nữa sẽ chứng đắc những Thánh đạo cao hơn.

– Tư đà hàm đạo đoạn giảm: Dục ái, sân hận.

– A Na Hàm đạo đoạn: Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân hận.

– A-la-hán Đạo đoạn thêm: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh.

15. quả tuệ (phala)

Tâm quả Tuệ phát sanh sau Tâm Đạo, đây là Tâm Quả Siêu Thế khởi lên trong 3 hay 2 sát na tâm.

Kết quả này là quy luật vận hành của các Pháp.

Hành giả cảm giác một sự an lạc sâu lắng. Sau khi tâm quả chấm dứt thì Niết Bàn không còn là đối tượng nữa.

16. tuệ phản chiếu (paccavekkhaṇa ñāṇa)

Liễu tri Đạo, Quả, Niết-bàn, và những phiền não, kiết sử nào đã diệt tận hay vẫn còn dư sót.

Ngay sau khi thực chứng một trong bốn Thánh Đạo-Quả vị ấy phản chiếu lại một cách tự nhiên những gì đã thể nghiệm:

– Thánh Đạo nào đã chứng

– Thánh Quả nào đã chứng

– Niết-bàn đã chứng qua Thánh Đạo-Quả nào

– Những phiền não hay kiết sử nào đã diệt tận.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (Hết trích dẫn)

🎯

Sự chia nhỏ này giúp thiền sinh dễ nhận biết đối chiếu so sánh các trạng thái mà mình mắc phải. Nhưng cũng dễ kẹt vào khái niệm ngôn từ khó hiểu. Cái lợi nhất là Minh sát tuệ này nói về 10 tùy phiền não trong phần Đạo Phi đạo tri kiến thanh tịnh khi mà sự quán thấy Sanh diệt của các đối tượng Hữu vi bắt đầu xảy ra, sự Định tĩnh của hành giả đủ sâu lắng để chúng xuất hiện làm cản trở bước tiến của Tuệ.

👉

10 Tùy phiền não

– hào quang (ánh sáng, cầu vồng…)

– trí tuệ tri thức (pháp học)

– hỷ (lúc nào cũng vui tươi)

– an tịnh

– lạc

– quyết tín (tín quá, thấy Niết bàn tưởng)

– tinh cần

– niệm (thái quá dẫn tới xuất hiện nimitta)

– xả (tưởng lầm k còn phiền não)

– dục cầu (thỏa mãn)

10 tùy phiền não này có vẻ rất tương đồng với Vị ngọt, nhưng ở mức độ cao cấp hơn Vị ngokt ngoài đời sống thực tại rất nhiều. Vị ngọt vật lý, vị ngọt tinh thần có thể thay thế. Nhưng vị ngọt tâm linh đã dính mắc là chỉ có kẹt lại bằng cả ngàn kiếp luân hồi.

👉

10 tùy phiền não này sẽ không xuất hiện khi

– định chưa đủ (phiền não khởi lên là phiền não thô, đời k phải là tùy phiền não của tuệ)

– không hành vipassana đúng cách (rơi vào tưởng, tà định, thấy ảo ảnh do các trung gian mang lại)

– đã là bậc Thánh và biết đạo lộ chân chánh

💘

Các khái niệm chỉ biết mù mờ cũng chết. Các khái niệm biết quá rõ rồi vướng mắc vào ngôn từ cũng chết. Nên cần thấu rõ ý tứ trong lời răn của Phật, không dừng chân khi thấy Vị ngọt, không Sợ hãi khi thấy Nguy hiểm. Cần hiểu thấu rõ đặc tính Vô thường, Vô ngã của Pháp để mà kiên trì trên đạo lộ không lối này.

Yếu lược kinh Tứ niệm xứ

Yếu lược Kinh Tứ niệm xứ Tỷ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.Tỷ kheo quán (thân/thân, thọ/thọ, tâm/tâm, pháp/pháp) (nội, ngoại, nội – ngoại) nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm.Vị ấy quán:- quán tánh sanh khởi trên tttp- quán tánh diệt tận trên tttp- quán tánh sanh diệt trên tttp.Vị ấy Tuệ tri: – pháp chưa sanh nay sanh khởi- pháp đã sanh nay được đoạn diệt- pháp đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa Vị ấy sống:- an trú chánh niệm- không nương tựa, chấp trước một vật gì trên đời (thấy biết với tâm rỗng lặng, thuần tịnh, trong sáng)p/s. ở đây dừng từ “pháp” trong Tuệ tri đại diện cho các vấn đề được nhắc tới trong Quán Pháp và “-” cuối cùng là câu đáng lưu ý nhất.Tứ niệm xứ, một bài kinh quan trọng, nhưng chúng ta quá chú tâm tới thế nào là Thân hay Thọ hay Tâm hay Pháp, và các chi tiết của TTTP mà thường bỏ qua mất các câu Chính Yếu được Phật nhắc đi nhắc lại ở trên.

Bát chánh đạo siêu thế

Tà đạo và Chánh đạo? Hữu lậu và Vô lậu? Hiệp thế và Siêu thế? Là gì? Đọc bài Kinh này, các vị quá chú trọng tới các câu hỏi vừa nêu mà quên mất Đại pháp 40 Phật muốn nói chính yếu trong bài Kinh là: – Ác bất thiện pháp được duyên khởi bởi Tà (kiến, tư duy, ngữ, nghiệp, mạng, tinh tấn, niệm, định, trí, giải thoát), bị tiêu diệt trong vị có Chánh (…)- Thiện pháp được duyên khởi bởi Chánh (…), được tu tập và trở thành viên mãn

🎯

Nhưng cần lưu ý phân biệt Chánh đạo hữu lậu và Chánh đạo Vô lậu, không thì cả đời tu tập vẫn chỉ là quả Sanh y.

🌻

Tà đạo: 1. Tà kiến: Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế tự, không có quả báo các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh; ở đời không có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, Chánh hướng, Chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt lại tuyên bố lên.2. Tà tư duy: dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy3. Tà ngữ: vọng ngữ, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời phù phiếm4. Tà nghiệp: sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục5. Tà mạng: lừa đảo, nói lời mê ly, hiện tướng, gian trá, lấy lợi cầu lợi

🌻

Chánh đạo Hữu lậu đưa đến quả sanh y:1. Chánh kiến Hữu lậu: Có bố thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, Chánh hướng, Chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên.2. Chánh tư duy Hữu lậu: Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy3. Chánh ngữ Hữu lậu: Viễn ly vọng ngữ, viễn ly nói hai lưỡi, viễn ly ác khẩu, viễn ly phù phiếm ngữ4. Chánh nghiệp Hữu lậu: Viễn ly sát sanh, viễn ly lấy của không cho, viễn ly tà hạnh trong các dục5. Chánh mạng Hữu lậu: vị Thánh đệ tử bỏ tà mạng, nuôi sống với Chánh mạng

🌻

Chánh đạo thuộc bậc Thánh, Vô Lậu, Siêu Thế, thuộc đạo chi (thuộc về một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm, có Hiền tâm)1. Chánh kiến Vô lậu: thuộc trí tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi, Chánh kiến, đạo chi 2. Chánh tư duy Vô lậu: thuộc suy tư, tầm cầu, tư duy, một ngữ hành do sự hoàn toàn chú tâm chuyên tâm 3. Chánh ngữ Vô lậu: thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly bốn ngữ ác hành4. Chánh nghiệp Vô lậu: thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly ba thân ác hành 5. Chánh mạng Vô lậu: thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly tà mạng

🍀

Chánh kiến đi hàng đầu: 1. Tuệ tri tà kiến là tà kiến, tuệ tri chánh kiến là chánh kiến2. Tuệ tri tà tư duy là tà tư duy, tuệ tri chánh tư duy là chánh tư duy3. Tuệ tri tà ngữ là tà ngữ, tuệ tri chánh ngữ là chánh ngữ; 4. Tuệ tri tà nghiệp là tà nghiệp, tuệ tri chánh nghiệp là chánh nghiệp5. Tuệ tri được tà mạng là tà mạng, tuệ tri được chánh mạng là chánh mạng

🍀

Thế nào là Chánh tinh tấn của Vị ấy: 1. Tinh tấn đoạn trừ Tà kiến, thành tựu Chánh kiến2. Tinh tấn đoạn trừ Tà tư duy, thành tựu Chánh tư duy3. Tinh tấn đoạn trừ Tà ngữ, thành tựu Chánh ngữ4. Tinh tấn đoạn trừ Tà nghiệp, thành tựu Chánh nghiệp5. Tinh tấn đoạn từ Tà mạng, thành tựu Chánh mạng

🍀

Thế nào là Chánh niệm của Vị ấy:1. Đoạn trừ Tà kiến, đạt được và An trú Chánh kiến2. Đoạn trừ Tà tư duy, đạt được và An trú Chánh tư duy3. Đoạn trừ Tà ngữ, đạt được và An trú Chánh ngữ4. Đoạn trừ Tà nghiệp, đạt được và An trú Chánh nghiệp5. Đoạn trừ Tà mạng, đạt được và An trú Chánh mạng

👉

Cận duyên và tư trợ cho Thánh Chánh định là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Có ba pháp chạy vòng hỗ trợ cho các Cận duyên và Tư trợ trên là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh niệm.

👉

Đạo lộ của vị hữu học gồm #8 chi phần là Bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định

👉

Đạo lộ của vị Alahan gồm #10 chi phần là Thập chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, Chánh trí và Chánh Giải thoát.

⛔

Đại pháp 40

🔸️

1. Tà kiến do Chánh kiến làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp được tà kiến duyên khởi, bị tiêu diệt trong vị có chánh kiến- Thiện pháp được chánh kiến duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

2. Tà tư duy do Chánh tư duy làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp được tà tư duy duyên khởi, bị tiêu diệt trong vị có chánh tư duy- Thiện pháp được chánh tư duy duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

3. Tà ngữ do Chánh ngữ làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp được từ ngữ duyên khởi, bị tiêu diệt trong vị có chánh ngữ- Thiện pháp được chánh ngữ duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

4. Tà nghiệp do Chánh nghiệp làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp được tà nghiệp duyên khởi, bị tiêu diệt trong vị có chánh nghiệp- Thiện pháp được chánh nghiệp duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

5. Tà mạng do Chánh mạng làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp được tà mạng duyên khởi, bị tiêu diệt trong vị có chánh mạng- Thiện pháp được chánh mạng duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

6. Tà tinh tấn do Chánh tinh tấn làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp do tà tinh tấn duyên khởi, bị tiêu diệt trong người có chánh tinh tấn- Thiện pháp được chánh tinh tấn duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

7. Tà niệm do Chánh niệm làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp do tà niệm duyên khởi, bị tiêu diệt trong người có chánh niệm- Thiện pháp được chánh niệm duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

8. Tà định do Chánh định làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp do tà định duyên khởi, bị tiêu diệt trong người có chánh định- Thiện pháp được chánh định duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

9. Tà trí do Chánh trí làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp do tà trí duyên khởi, bị tiêu diệt trong người có chánh trí- Thiện pháp được chánh trí duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

🔸️

10. Tà giải thoát do Chánh giải thoát làm cho tiêu diệt- Ác bất thiện pháp do tà giải thoát duyên khởi, bị tiêu diệt trong người có chánh giải thoát- Thiện pháp được chánh giải thoát duyên khởi, được tu tập và trở thành viên mãn

👇
👇
👇

Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi này đáng bị phê bình, đáng bị phỉ báng, thời ngay hiện tại, mười thuận thuyết hợp pháp được nói lên để chỉ trích người ấy. Cho đến các dân chúng ở Ukkalā và dân chúng Vassa, dân chúng Bhaññā theo vô nhân luận, theo vô tác luận, theo hư vô luận, những vị ấy cũng không nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi đáng chỉ trích, đáng bị phỉ báng. Vì sao vậy? Vì sợ quở trách, phẫn nộ, công kích.

🙏

Trích lược: Ðại Kinh Bốn Mươi (Mahācattārīsakasutta) (Trung bộ Kinh – Nikaya – HT Thích Minh Châu dịch)http://samanta.vn/featured/dai-kinh-bon-muoi/

Thiền

Nhiều bạn vẫn nhầm lẫn không chỉ giữa việc thực hành hai pháp Chỉ và Quán, mà còn giữa điều mà hai pháp đưa đến sau “sự chờ đợi”.

Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần Minh.

Thế nào là hai? Chỉ và Quán.

– Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về Tham được đoạn tận.

– Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc Vô minh được đoạn tận.

👉

Bị Tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, Tâm không thể giải thoát.

👉

Hay bị Vô minh làm uế nhiễm, Tuệ không được tu tập.

🎯

Do vậy, do ly Tham, là Tâm giải thoát.

🎯

Do đoạn Vô minh, là Tuệ giải thoát.

Trích Chương II Hai Pháp, III. Phẩm người ngu (Tăng chi bộ Kinh – Kinh Nikaya – HT Minh Châu dịch)

https://www.budsas.org/…/u-kinh…/tangchi02-0104.htm
☘️
☘️
☘️
👉

Này Bhāradvāja, rồi Ta suy nghĩ: “Ta hãy nghiến răng, dán chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!” Này Bhāradvāja, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Bhāradvāja, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Bhāradvāja, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Bhāradvāja, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.

👉

Rồi này Bhāradvāja, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Trích Kinh Sangàrava (Trung bộ Kinh – Kinh Nikaya, HT Minh Châu Việt Dịch)

https://suttacentral.net/mn100/vi/minh_chau
☘️
☘️
☘️

Yếu lược Kinh Tứ niệm xứ:

👉

Tỷ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.

👉

Tỷ kheo quán (thân/thân, thọ/thọ, tâm/tâm, pháp/pháp) (nội, ngoại, nội – ngoại) nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm.

👉

Vị ấy quán:

– quán tánh sanh khởi trên tttp

– quán tánh diệt tận trên tttp

– quán tánh sanh diệt trên tttp.

👉

Vị ấy Tuệ tri:

– pháp chưa sanh nay sanh khởi

– pháp đã sanh nay được đoạn diệt

– pháp đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa

👉

Vị ấy sống:

– an trú chánh niệm

– không nương tựa, chấp trước một vật gì trên đời (thấy biết với tâm rỗng lặng, thuần tịnh, trong sáng)

Trích Kinh Tứ Niệm xứ (Trung bộ Kinh – Kinh Nikaya, HT Minh Châu dịch)

🎯
🎯
🎯

Thiền chỉ, đưa tới tịnh chỉ, hơi thở nhẹ như êm, đưa tới an tịnh, đưa tới vắng mặt phiền não, đưa tới vắng lặng, đưa tới an lạc tạm thời, nhất là trong khi thiền. Nhưng nó không đưa tới Chánh định.

Chánh định chỉ tới từ việc thực hành Tứ niệm xứ, chỉ là Tứ niệm xứ.

Trà … chà … chà

Bạn đang đến với Thiền vì điều gì? Vì nó đem lại cho bạn sự bình an, sự lắng dịu của tâm trí, sức khỏe, khỏi một bệnh gì đó (thiền nhân điện), thêm năng lượng làm việc, thêm tỉnh táo, thậm chí là một mode tâm linh cao hơn cả công danh và tiền bạc… Tất cả những điều đó đều là hệ quả của Thiền. Nó không phải là mục đích. Có thể bạn đạt được chúng, nhưng bạn đã mất đi tính Thiền và bạn sẽ không bao giờ hiểu Thiền là gì.

Bạn đang đến với Trà vì điều gì? Tôn vinh trà Việt? Lan tỏa trà Việt? Đam mê trà? Kiếm tiền từ Trà? Bổ dưỡng từ công dụng của Trà? Hay là thưởng thức một thứ thức uống đặc biệt vừa cổ vừa ngoại (trà nhập)? Thậm chí có vẻ thời thượng chứng tỏ gu của mình hơn cả caffe và sinh tố… Tất cả những điều đó đều là hệ quả của việc bạn uống Trà. Nó không phải là mục đích của Trà. Có thể bạn vẫn sẽ thấy chúng khi bạn uống Trà, đến với Trà nhưng bạn sẽ không bao giờ hiểu được Trà là gì.

Cũng giống như giờ đang chống dịch, việc điều tiết là của chính phủ, việc chăm sóc bệnh nhân là của bác sỹ, việc cứu trợ là của bộ đội và các tổ chức từ thiện, còn việc của chúng ta là tuân thủ chỉ thị 16+, thực hiện 5K. Mỗi thứ nhỏ bé thôi, cứ làm tốt việc của mình, xã hội tự tốt đẹp.

Mỗi hạt giống được nhân lên, được gieo trồng rồi có thể nở thành hoa thơm, trái ngọt hay không đều bắt nguồn từ những điều rất nhỏ vậy.

Nên khoan vội lo lắng chuyện tương lai, hay thao thức với bao hoài bão, câu chuyện ngày hôm nay, có thể cùng nhau uống tách trà và mỉm cười đã là quý hóa lắm rồi.

Trà … chà … chà …

Nghỉ hưu tuổi 40

Mục tiêu nghỉ hưu ở tuổi 40, nhưng mới hết tuổi 36 đã được nghỉ rồi? Tại sao?

Nói con số 36 vẫn hơi ngượng với các bạn tuổi trẻ, nhiều bạn giờ 30 thậm chí có 2x thôi đã thành công. Còn thực hư chuyện nghỉ hưu của tôi như thế nào? Làm sao để được nghỉ hưu sớm? sẽ viết sơ sơ ở dưới đây.

Nghỉ hưu, tất nhiên là chuẩn nghỉ hưu:

không phải lo cơm áo gạo tiền, có khoản tiền thụ động chảy vào túi đủ xài

– không phải dậy buổi sớm đi làm và bị điểm danh

Đủ hai tiêu chí này là được nghỉ hưu thôi.

Nhiều bạn đọc tới đây sẽ nghĩ rằng tôi chắc quá giàu rồi, tiền gửi tiết kiệm hay nhà cho thuê nhiều lắm mới được như vậy. Hoặc là tự cho mình danh hão. Xin thưa, không điều gì đúng cả. Nếu ai biết tôi thời gian gần đây thì điều này chẳng hề chém gió tí nào. Vậy thì thế là thế nào?

1/Bạn hãy coi Gia đình mình như một Doanh nghiệp, có thu, có chi, có thặng dư.

– thu thì gồm các khoản lương, thưởng, lợi nhuận kinh doanh nếu là bạn mở doanh nghiệp

– chi thì gồm tất tần tật các khoản bạn đang chi, nếu có điều kiện hãy viết nó ra, rất quan trọng.

– lợi nhuận là các điều kiện bạn đang được hưởng thụ bao gồm cả vật chất, tinh thần

Cái cốt yếu của 1 doanh nghiệp là luôn có lợi nhuận dương. Để có lợi nhuận dương thì Thu luôn phải lớn hơn Chi.

TH1: Thu là cố định đối với các bạn đi làm lấy lương, vậy cách duy nhất là giảm chi. Bạn liệt kê hết các khoản ra và hãy gạch tất cả những gì k cần thiết, hoặc những gì có thể tiết kiệm được ở mức tối đa.

TH2: Thu là biến thiên với các bạn làm doanh nghiệp, tháng nọ tháng kia, vậy thứ nhất bạn phải tự trả lương xứng đáng cho mình; thứ 2, trích lợi nhuận tháng phù hợp; thứ 3, chỗ này thuộc về tài chính doanh nghiệp: tôi vẫn nhớ ví dụ, bạn có 10 đồng đầu tư lợi nhuận 1 đồng, 100 đồng đầu tư lợi nhuận 10 đồng; nhưng 500 đồng đầu tư lợi nhuận có thể chỉ là 20 đồng. Nên việc của bạn, là phải biết điểm có hiệu suất đầu tư cao nhất. Và cái này là biết mình biết ta, cân ứng với nguồn lực của mình và khả năng quản trị, lãnh đạo… tôi không làm được to, nên tôi k ham to, làm nhỏ thôi. Và tiếp tục là bài toán Chi trong gia đình cũng sẽ tương xứng với khoản Thu của bạn.

2/Bạn hãy tìm hiểu về 8 bánh xe cuộc đời

8 bánh xe này gồm: tài chính, sự nghiệp, sức khỏe, mqh, chia sẻ, pt bản thân, giải trí và tâm linh. Hãy coi đây là 1 list các hạng mục cần đầu tư và cái nào đem lại hiệu quả nhất, vốn thấp nhất thì ưu tiên thôi.

Xem cái nào bạn sẽ xây dựng được mà không cần dùng đến tiền, cái nào liên quan tiền nhưng nhờ những cái kia phát triển mà tiền thặng dư lại nhiều hơn. Ví dụ: tài chính, nếu bạn có sức khỏe tốt thì bạn sẽ không phải chi nhiều, hãy tham gia các bộ môn thiền, khí công, yoga rất rẻ. Hay phát triển bản thân: tự học, tự đọc, kiểm soát cảm xúc: nếu những cái này tốt thì sự nghiệp của bạn cũng thăng tiến.

3/Bạn tìm hiểu 6 chiếc lọ tài chính: tiêu dùng thường xuyên, tiết kiệm, đầu tư dài hạn, học tập, hưởng thụ, từ thiện hay cho đi. Bài học này khá khó khi nhiều người nói tôi k thể đủ tiêu dùng hằng ngày. Nhưng hãy tìm hiểu và học cách tiêu dùng như 6 chiếc lọ này.

Tôi muốn giới thiệu với bạn cách tiêu dùng này để cho phần lợi nhuận ở trong “Doanh nghiệp gia đình” bạn được tối ưu. Tức là nó bao gồm đủ cả vật chất và tinh thần, chứ không đơn giản sẽ chỉ là tập trung vào tiêu dùng cơ bản hay quá thắt lưng buộc bụng.

Rồi, túm lại thì làm thế nào để được nghỉ hưu sớm?

– Thứ nhất: Chắc chắn bạn phải đủ một số tiền cơ bản, số này sẽ phụ thuộc vào khoản thu-chi ở phần 1. Ví dụ bạn kiếm được 100tr, hàng tháng bạn tiêu cả 90tr, để dành 10tr thì dòng lợi nhuận cũng lâu để bạn có thu nhập thụ động. Nhưng nếu chi giảm đi, số tiết kiệm là 50tr thì sẽ nhanh có khoản kha khá gửi ngân hàng thôi. Và 50tr chi tiêu, áp dụng pp 6 chiếc lọ thì hoàn toàn bạn vẫn sang chảnh và là người biết cho đi. Bạn ứng dụng 8 bánh xe cuộc đời, phát triển những điều k cần tiền, thì khoản 50tr này còn được giảm xuống nữa.

– Thứ hai: tâm lý không lo lắng về tiền bạc: ví dụ bạn có 1 tỷ gửi tkiem nhưng lo tiền sẽ mất giá thì sao, lo việc xấu sẽ xảy đến với mình thế nào, mình phải kiếm thêm để còn tích lũy tương lai. Ngay khi việc thu nhập của tôi đủ cơ bản cho chi tiêu, tôi đã hoàn toàn không còn lo lắng tới tiền bạc. Vì vậy, thời gian và tâm trí tôi dành cho các việc phát triển bản thân, chia sẻ cộng đồng, tâm linh và những cái này vô tình đưa con đường sự nghiệp và tài chính của tôi được thăng hoa. Thật sự, tôi gần như không mất thời gian cho công ty và suy nghĩ làm sao để kiếm thêm tiền. Mỗi ngày đến với tôi đều là một cái duyên. Đơn hàng công ty nổ cũng hạnh phúc, không nổ phải nghỉ dịch tôi động viên các bạn ở nhà dưỡng sức, rèn luyện sức khỏe cho thật tốt. Cái này thực sự là kì diệu và may mắn với tôi, tôi không lý giải được.

Vậy hghỉ hưu có phải là không làm gì nữa không? Không phải. Như trên đã nói đủ 2 điều kiện có tiền và không bị điểm danh là nghỉ hưu rồi. Dù nghỉ hưu nhưng tôi khá là bận rộn như:

– tham gia các khóa tu thiền 10 ngày

– cùng bạn mở thêm một quán trà Vô Tứ Trà làm địa điểm ace tới tu tập và sinh hoạt thiền, tại đây tôi tự tay đóng từng gói trà nhỏ xiu xiu 6g một – công việc lúc này không phải là kiếm tiền, nhưng nó là chỗ để chúng tôi có thể thực hành thiền và quán chiếu tâm mình trong đời sống, nhưng kì diệu là quán lại vẫn mang về cho chúng tôi lợi nhuận đủ thuê nhà và gieo duyên tiếp các công việc thiện lành

– chia sẻ về ăn chay chánh niệm và lối sống chánh niệm, tối giản

– tham gia các tổ chức thiện nguyện…

Cả một bài dài ơi là dài, và nếu ai không học kinh tế có lẽ hơi hoa mắt vì phân tích như tôi. Nhưng rốt lại, nếu bạn có 10 tỷ mà bạn không biết cách để nghỉ hưu thì bạn mãi vẫn là Nô lệ cho đồng tiền. Nói thật tài khoản tôi không có tới 1 tỷ đâu. Nhưng với tôi thế là đủ sống, ngày mai tôi không phải lo không có gì ăn đã là quá hạnh phúc rồi. Tâm sức của tôi còn dành cho nhiều thứ khác nữa, không phải chỉ để kiếm tiền. Mặt khác, tôi tự biết khả năng của mình tới đâu nên không tham vọng khám phá, phát minh gì gì cả. Sống yên lành với mọi người xung quanh đã khó lắm rồi. Và trong đợt giãn cách này, đang rảnh, bạn thử cộng trừ nhân chia để sớm có kế hoạch nghỉ hưu xem sao.

Hối – hận

Con đường Hối – Hận 🍁🍁🍁

Hôm trước, trong Huyền môn đạo sư, cửa cuối cùng vào Đạo là đi qua con đường Hối – Hận gồm Hối tiếc và Hận thù. Trước mặt Lục tặc tiên ma, bạn phải thành thật trả lời những câu hỏi. Nhiều người đã trả lời không thật đều phải quay lại nơi xuất phát, người chọn không trả lời sẽ kẹt lại nơi con đường Hối Hận đó.

Các bạn tu đạo chân chính đều biết, cả quãng thời gian sống này chỉ là tu tập dành cho lúc chết. Bạn còn mong cầu, vương vấn, hối, hận… hay gì gì nữa không sẽ quyết định bạn ở sau thời điểm chết. Nên trong tu đạo mới có câu: chỉ cần kiếp này biết bạn sống như thế nào, là biết được kiếp sau. Khi sống này còn chưa giải thoát thì đừng mong chết sẽ giải thoát.

Việc mà đích đến của cuộc đời này không phải là bình an, hoặc chỉ cần biết ngay giây phút hiện tại này là đủ – thực ra là chưa đúng và chưa hết, mình sẽ nói ở một bài khác. Nhưng sự thực, những ai tu đạo đều biết, thời điểm cận tử là lúc đó các nghiệp lực đổ về, mọi thứ tham sân si ngủ ngầm lúc đó mới trổ bung hết. Mà câu chuyện thầy trò Đường Tăng quên mất câu hỏi của con rùa để rồi có kiếp nạn thứ 81 là thế.

Bạn sẽ luôn phải thành thật, và trong những lúc tịch tĩnh ở các thời tọa thiền sâu, hãy thành thật với tâm thức của mình. Cái gì cần chồi lên, nó sẽ chồi lên cho bạn trả lời, tự vấn, sám hối, tha thứ và hóa giải.

Cũng thật may, hiện giờ về Hối hình như không còn. Chỉ có một điều với nhân sinh, mình quá nhỏ bé, sức lực có hạn. Trước cũng tìm cách này nọ, nhưng từ khi đọc cuốn Đức Phật và nàng (tên khác là Không phụ Như Lai, Không phụ Nàng) – thì Kumarajiva (nhân vật có thật trong lịch sử TQ, người có công đưa Phật giáo về TQ đầu tiên, trước cả Đường Tam tạng, nhưng vì ông vẫn có vợ con nên lịch sử như muốn lãng quên) cũng đành bó tay trước dịch nạn đói, xót xa khi tận mắt chứng kiến người ăn thịt người, lần chứng kiến sâu sắc đó cũng khiến ông thấu hiểu hơn con đường mà Đức Phật truyền dạy, mình cũng nhờ câu chuyện đó và thực tại mà tinh tấn tu tập hơn.

Còn về Hận, mất một ngày đào bới, cuối cùng nó cũng lên một xâu. Xưa mình là người thẳng tính, yêu ghét rõ ràng, vì vậy mà gây thù chuốc oán với không ít người. Mình tự nhận mình là vô tư trong sáng, sống có trách nhiệm, vì cộng đồng, vì người khác. Nhưng có những đứa vì tư tưởng cá nhân, thậm chí vì ghen ăn tức ở trước thành tích và sự yêu mến của mình mà vùi dập mình. C1, c2, c3, đh, rồi cả đi làm, cả khi làm CEO sinh hoạt trong cộng đồng tri thức, hay cộng đồng tu tập đều có. Những con người đó, trước đây mình đã dùng cách bỏ qua, không thèm chấp, vì tâm niệm người đó dù thế nào mãi mãi chẳng hơn mình, mình như này sao phải chấp họ, mình gạt họ ra khỏi trí nhớ, khỏi đầu, khỏi tiếp xúc, khỏi làm ăn đối tác… và hạnh phúc trong sự bình an giả tạm. Mình cũng thật bái phục những ai trong lòng thì ghét nhau, ngoài mặt vẫn chơi với nhau. Và nghĩ tới họ thì một loạt những định kiến, những hồi ức, cả cảm xúc lẫn lộn hiển hiện nơi thân tâm này. Mới thấy rõ, nếu chỉ có né tránh, bạn sẽ không bao giờ đi sâu vào con đường trí tuệ được. Ngồi quan sát nó một lúc, các cảm xúc đó hiện lên rồi lắng đi, sự tha thứ hiện diện, sự biết ơn nhân sinh có mặt. Xét cho cùng, bởi vì chính mình cho rằng mình là tốt đẹp, là như vậy, mà sao họ dám đặt điều, nói xấu, phản bác lại mình nên mình mới ghét. Nếu mình chẳng là gì cả, thì làm gì có tốt có xấu. Những điều họ nói cũng là một góc nhìn theo nhân duyên của họ. Theo nhân duyên của mình, thì cái mình cho là tốt có tốt hơn cho người khác.

Vậy đấy. Thật cảm ơn những bài học đến một cách tình cờ. Những nhân duyên đến để giải bài toán về cái bản ngã này.

Thở mùa covid

Covid, bài học về thay đổi thói quen thở của bạn?

Từ ngày vào mùa dịch, mình có khuyên một vài bạn bè mình nên tập thở bụng để tạo thói quen cho phổi rèn luyện cường độ cao, nếu có mắc covid, lúc nào khó thở thì sẽ ráng thở được. Còn thở là còn sống.

Nhưng trong những ngày giãn cách, không phát sinh công việc mấy, não được nghỉ ngơi, tay chân được nghỉ ngơi, giãn cách lâu nên tâm si nó cũng chán không hoạt động mấy, nên có thời gian ngồi quan sát nhiều hơn. Thấy mình thở rất nhẹ, nhịp thở tính ra bằng 3/5 bình thường. Các cơ quan nội tạng đều ở trạng thái thư giãn, tâm thái bình an. Nhất là khi ở trạng thái định của thiền tọa, thì hơi thở như mây vậy.

Quay lại các kiến thức cơ bản: não tiêu thụ nhiều oxy nhất vì nó nhiều suy nghĩ, nhiều tâm tư nhất, các cơ quan nội tạng không được nghỉ ngơi, ăn uống suốt ngày cũng cần nhiều oxy, nên khi ốm người ta sẽ ăn đồ thanh nhẹ, dễ tiêu hóa.

Vậy bài học gì sẽ rút ra ở đây?

– Khi covid xâm nhập cơ thể, đi vào tế bào, cơ quan. Thì việc trước hết đừng hoang mang, sợ hãi, hay lo lắng, cái này sẽ tiêu thụ nhiều oxy ở trên não, đòi hỏi phổi phải thở nhiều hơn.

– Thiền hơi thở, bạn có thể dùng ý thức để thở như khi tập thở bụng, nhưng kết hợp thiền hơi thở: Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. (Trích Kinh kinh Niệm xứ Trung Bộ Kinh Majjhima Nikaya (https://linhquyphapan.vn/tin-tuc/kinh-tu-niem-xu)) – Bình thường thì trong thiền việc thở diễn ra tự nhiên, nhưng lúc này việc thở là cần có ý thức thì mình làm như thở là một hành động bên ngoài nhưng quan sát được hành động đó. Khi bạn quan sát được như vậy, bạn có thể chạm tới cận định, các cơ quan khác ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất, cần ít oxy nhất và dồn oxy cho phổi – cơ quan bị tổn thương.

Vậy khi chưa có bệnh, bạn làm gì?

– Buổi sáng dậy, trước khi ra khỏi giường, mình tập hít vào thở ra 30 cái thật sâu và quan sát nó

– Tập tọa thiền 30p nữa với việc hơi thở diễn ra tự nhiên cho não bộ và toàn thân thư giãn hoàn toàn

– Dậy xúc miệng, xúc họng nước muối

– Pha một ấm trà, nướng bánh mì quệt mật ong hoặc sữa đặc – hoạt chất tanin trong trà ức chế việc virus xâm nhập tế bào, và mỗi ngày bạn hãy uống 3g trà nhé (Một ly trà qua cơn mê đại dịch https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1215885978831876&id=100012314562478)

Và thời gian còn lại, hãy quan sát hơi thở bất cứ khi nào có thể. Hãy luôn quay về với hơi thở, nhận diện ra sự có mặt của nó, có thể bằng sự phồng xẹp ở bụng, hay sự phập phồng nơi cánh mũi, sự nâng lên hạ xuống của lồng ngực, cái nào cũng được. Hãy sống thật tự nhiên, bạn chắc chắn an yên.

Còn bận rộn?

Không phải là thiền Vipassana thì có rất nhiều thứ để nói lắm: nào là thiền thế nọ, nào là thiền thế kia, nào là năng lượng tốt, nào là thích lắm, nào là thần kì, nào là nhiệm màu, nào là an lạc, nào là giải tỏa, nào là không căng thẳng, nào là hết đau đầu,….

Nhưng đã thực hành thiền Vipassana thì lại chẳng có gì để nói, chẳng có gì để hướng dẫn cả. Vì các giác quan của mỗi người là không giống nhau, duyên nghiệp không giống nhau, nên trải nghiệm đó phải tự mình thấy, tự mình chiêm nghiệm, tự mình đi qua vậy. Mới đầu thì còn tạm giống vì nó im im, định định ở thân, thuộc về 5 giác quan mắt – tai – mũi – lưỡi – thân. Thêm chút nữa thì muốn miêu tả, lại thấy ý nghĩ hay suy nghĩ của mình vừa mới ló ra định khoe khoang hiểu biết, định viết viết chút đỉnh đã lại thấy là quá dư thừa rồi.

Thôi thì, lại làm vài ngụm trà. Tâm tư này có sinh lên, rồi lại theo lẽ vô thường mà diệt đi. Ngẫm thế gian còn nhiều rối ren vì cố gắng muốn mọi thứ theo ý mình, mọi thứ tốt đẹp theo mong muốn, nhu cầu của mình, mà chẳng chịu chấp nhận những đắng cay, đớn đau và mất mát. Hay đơn giản là chấp nhận mình quá đỗi là bình thường.

Trà mà, có đắng thì sẽ có ngọt. Không phải uống riết lại thành quen mà đơn giản tự nhiên nó là thế. Còn chấp nhất thì còn bận rộn.

Na ná tình yêu

Không phải cứ nam với nữ cạnh nhau là thành yêu nhau

Không phải cứ nước sôi với búp trà là thành trà

Cái na ná tình yêu thì có nhiều lắm

Và cái na ná nước trà thì cũng càng có nhiều

Đừng đổ lỗi cho nhân sinh

Cũng đừng bảo rằng là do vị giác mỗi người một khác

Tình yêu là sự kết hợp hài hòa và rung động từ thể xác tới tâm hồn của hai người. Không cần nói gì, cũng không cần khoe khoang, cũng không cần chứng minh, cũng không cần giải thích, và càng không cần ràng buộc bởi một định danh nào cả. Nếu đã cảm được tình yêu thì nó ở đó, nó là như thế và như thế.

Trà cũng là sự kết hợp hài hòa giữa nước và búp trà. Loại này cần nhiều nước, loại kia cần ít nước, loại cần hãm nhanh, loại cần tiềm trà… Điểm hài hòa này cũng chẳng phải do người uống công nhận, mà tại đó hương vị của trà được cân bằng, tròn trịa nhất – đủ hương, đủ vị, để người uống cảm nhận đấy là trà, và uống vào được, uống nhiều được, uống lâu được, dù là người lần đầu uống, hay biết tới nó.

Tại sao vậy? Giống như tình yêu thật, tự nó đẹp đẽ, khiến người trong cuộc chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện chia tay. Vì người ta không có nhu cầu làm cho nó trở lên hoàn hảo hay tròn trịa hơn. Như vậy, trà ra đúng vị, người ta cũng không có nhu cầu thêm thắt hay tìm kiếm bất cứ điều gì cho nó.